- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp
- Viêm khớp vảy nến
Viêm khớp vảy nến
Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh nằm trong tiêu đề này có những đặc điểm là khởi phát thường trước tuổi 40, có viêm cột sống hoặc những khớp lớn ngoại vi, viêm màng bồ đào trong một số ít bệnh nhân, có mối liên quan chặt chẽ với HLA-B27 và vắng mặt các tự kháng thể trong huyết thanh.
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Vảy nến có trước viêm khớp trong 80% trường hợp.
Viêm khớp thường không đối xứng, ngón tay ngón chân hình "khúc dồi", giống viêm khớp dạng thấp; yếu tố dạng thấp âm tính.
Thường có tổn thương khớp cùng chậu; có thể phối hợp với viêm cột sống dính khớp.
Dấu hiệu X quang: tiêu xương, biến dạng kiểu "bút chì vót nhọn"; vắng mặt loãng xương; dính khớp; viêm khớp cùng chậu không đối xứng và những cầu xương không điển hình.
Nhận định chung
Viêm khớp xuất hiện ở 15 - 20% bệnh nhân bị bệnh vảy nến. Viêm khớp đi kèm váy nến có các đặc điểm và các thể sau:
Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.
Thể vài khớp, có thể dẫn đến phá hủy nặng những khớp bị bệnh.
Thể bệnh mà tổn thương tiên phát xuất hiện ở các khớp ngón xa. Giai đoạn sớm, có thể là một khớp và tổn thương khớp không đối xứng. Thường có kết hợp với hiện tượng lõm và bong các móng.
Viêm khớp biến dạng nặng (què do viêm khớp), tổn thương tiêu xương nặng.
Thể viêm cột sống với viêm khớp cùng chậu gây tổn thương nổi bật ở cột sống; 45% những bệnh nhân này có HLA-B27 dương tính.
Lâm sàng
Mặc dù vảy nến thường có trước khi khởi phát viêm khớp, song 20 - 25% bệnh nhân có viêm khớp trước bệnh lý của da. Bệnh nhân có tổn thương da nặng có tỷ lệ viêm khớp cao hơn ít nhất 5 lần so với những bệnh nhân có tổn thương da nhẹ. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có bệnh nhân có một đám vảy nến (điển hình thường ẩn ở vùng da đầu, rãnh liên mông, rốn) và không nhận ra được mối liên quan của nó đối với viêm khớp. Do vậy, cần thăm khám kĩ lưỡng tìm những tổn thương da ở bệnh nhân có viêm khớp mới khởi phát. Cũng như vậy, tổn thương vảy nến có thể đã hết khi viêm khâp xuất hiện - trong những trường hợp này việc hỏi tiền sử là quan trọng nhất để chẩn đoán những trường hợp có viêm một vài khớp mà trước đó chưa lý giải được. Vết lõm móng tay và di chứng của vảy nến trước đây đôi khi là đầu mối duy nhất.
Xét nghiệm
Tốc độ lắng máu tăng, nhưng yếu tố dạng thấp âm tính. Nồng độ acid uric có thể cao, phản ánh tổn thương da vẫn tiến triển do vảy nến. Có mối tương quan giữa mức độ lan rộng của vảy nến và nồng độ acid uric máu nhưng tỷ lệ gut cũng không cao hơn so với những người không bị vảy nến. Sự bong vảy của da có thể làm giảm dự trữ sắt.
Thăm dò hình ảnh
Các dấu hiệu X quang thường có ích nhất trong chẩn đoán phân biệt bệnh với những dạng viêm khớp khác. Có thể thấy dấu hiệu bào mòn ở đầu xương, sự phá hủy không đều của xương và khớp, khi những dấu hiệu này xuất hiện ở các đốt ngón tay tạo ra hình ảnh một cái bút chì được vót nhọn. Hiện tượng tạo xương mới ở màng xương kiểu vỏ bọc mềm có thể rất đáng kể, đặc biệt tại chỗ bám của cơ và dây chằng. Những thay đổi như vậy có thể thấy dọc theo thân các xương bàn ngón tay, bàn ngón chân và các xương đốt. Cốt hóa cạnh cột sống xuất hiện và có thể phân biệt với viêm cột sống dính khớp bởi sự vắng mặt của hiện tương cốt hóa mật trước cột sống.
Điều trị
Điều trị có tính chất điều trị triệu chứng. Các thuốc chống viêm không steroid có tác dụng. Thuốc chống sốt rét có thể làm cho vảy nến nặng lên. Liệu pháp muối vàng thường có hiệu quả. Trong những trường hợp kháng với điều trị, methotrexat được sử dụng và có một số hiệu quả, nhưng chỉ nên dùng bởi những người đã quen với việc sử dụng nó. Điều trị có hiệu quả những tổn thương da thông thường (nhưng không phải là luôn luôn) làm cải thiện các triệu chứng về khớp.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh viêm cột sống dính khớp
Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng có xu hướng lan dần lên phía đầu, vận động cột sống trở nên hạn chế, mất đường cong sinh lý bình thường của cột sống thắt lưng.
Bệnh calci hóa sụn và giả gút
Không giống bệnh gút, bệnh nhân bị bệnh giả gút thường có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường, và kém đáp ứng với điều trị bằng colchicin
Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh: bệnh charcot
Khi trương lực cơ bình thường và những phản xạ bảo vệ bị mất, bệnh khớp thoái hóa thứ phát đã xuất hiện, làm cho khớp trở nên yếu, to ra.
Bệnh viêm mô sợi
Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.
Những nguyên tắc cơ bản trong điều trị bệnh khớp mạn tính
Mức độ nghỉ ngơi phụ thuộc vào sự có mặt và mức độ viêm. Những bệnh nhân đang có viêm khớp và những triệu chứng toàn thân nặng như trong bệnh viêm khớp dạng thấp
Bệnh thiểu sản xương: bệnh giòn xương
Dạng thứ hai là thiểu sản xương muộn, trong đó gẫy xương và biến dạng xương xuất hiện sau khi đẻ. Xương dòn, dễ gãy là một tiêu chuẩn rõ ràng nhất cho chẩn đoán.
Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực
Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực cần phải phân biệt với những triệu chứng của thoái hòá cột sống cổ, các khối u của tủy cổ hoặc của các rễ thần kinh, viêm quanh khớp vai và những hội chứng cổ cánh tay khác.
Hội chứng đau cổ cánh tay
Nguyên nhân đau cổ gồm căng cứng hoặc vẹo cổ cấp hoặc mạn tính, thoát vị nhân nhày đĩa đệm, thoái khớp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp dạng thấp
Bệnh hỗn hợp của mô liên kết
Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.
Viêm lồi cầu
Dùng một băng chun quân phía trên cẳng tay có thể làm cho bệnh nhân dễ chịu hơn mỗi khi bệnh nhân phải mang xách nặng.
Viêm bao thanh dịch
Viêm bao thanh dịch có thể do nhiễm khuẩn. Hai vị trí thường bị là mỏm khủyu và trước xương bánh chè. Viêm bao thanh dịch cấp ở hai vị trí này cần chọc dò để loại trừ nguyên nhân nhiễm khuẩn.
Viêm khớp trong bệnh sarcoid
Tuy viêm khớp sarcoid thường kèm theo ban đỏ dạng nốt, song chẩn đoán lại dựa vào sự có mặt của những biểu hiện ngoài khớp khác của bệnh sarcoid.
Bệnh đau nhiều cơ do thấp và viêm động mạch tế bào khổng lồ
Khi có đau đầu và những triệu chứng khác gợi ý viêm động mạch sọ não, cần bắt đầu dùng ngay prednison 60 mg một ngày để đề phòng mù mắt, sinh thiết động mạch thái dương cũng nên được tiến hành ngay.
Thấp khớp hay tái phát
Thấp khớp hay tái phát là một bệnh không rõ nguyên nhân đặc trưng bởi những đợt viêm cấp không tái phát, Sưng đau khớp ngoại vi và nổi hạt dưới da tạm thời có thể xuất hiện.
Bệnh gút
Gút là một bệnh rối loạn chuyển hóa, thường có tính chất gia đình, do sự thay đổi bất thường lượng urat trong cơ thể và đặc trưng đầu tiên của bệnh là những cơn viêm khớp cấp tái phát
Những biểu hiện khớp trong nhiễm HIV
Viêm gân Achille hoặc viêm quanh khớp gối, như trong hội chứng Reiter cổ điển, là những dấu hiệu thường nổi bật và rất đặc trưng.
Viêm nút đa động mạch
Viêm đa động mạch đặc trưng bởi tổn thương cục bộ hoặc từng đoạn của các mạch máu, đặc biệt là các động mạch nhỏ và trung bình, gây ra những biểu hiện lâm sàng khác nhau.
Luput ban đỏ hệ thống
Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.
Hội chứng đường hầm cổ tay
Hội chứng này cần phải phân biệt với các hội chứng đau cổ cánh tay khác, hội chứng chèn ép thần kinh giữa vùng cẳng hoặc cánh tay, bệnh viêm một dây thần kinh.
Hoại tử xương vô khuẩn
Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.
Xơ cứng bì toàn thể
Xơ cứng bì toàn thể là một bệnh mạn tính đặc trưng bởi xơ cứng lan toả của da và tổn thương các nội tạng, Nguyên nhân của bệnh chưa rõ, song có vai trò của yếu tố tự miễn dịch.
Nhiễm khuẩn xương và khớp do nấm
Phân biệt với những ổ nhiễm khuẩn mạn tính khác dựa vào kết quả nuôi cấy dịch khớp hoặc tổ chức lấy từ ổ tổn thương. Các phản ứng huyết thanh cung cấp những bằng chứng có ích cho chẩn đoán.
Biểu hiện thấp khớp trong ung thư
Bệnh bạch cầu tế bào tóc có thể phối hợp với viêm các mạch máu cỡ trung bình, như bệnh viêm nút đa động mạch, Bệnh bạch cầu cấp có thể gây đau khớp.
Lao xương khớp
Hầu hết những nhiễm khuẩn do lao ở Mỹ do vi khuẩn lao người Mycobacterium tuberciilosis gây ra, Nhiễm khuẩn hệ thống xương khớp do sự lan tràn trên đường máu.
Viêm đa cơ - viêm da cơ
Viêm đa cơ là một bệnh hệ thống mà nguyên nhân chưá rõ, biểu hiện chủ yếu của bệnh là yếu cơ, Đây là một bệnh cơ nguyên phát thường gặp nhất ở người lớn.
