Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực

2016-12-18 11:27 PM

Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực cần phải phân biệt với những triệu chứng của thoái hòá cột sống cổ, các khối u của tủy cổ hoặc của các rễ thần kinh, viêm quanh khớp vai và những hội chứng cổ cánh tay khác.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực gồm những rối loạn gây chèn ép các cấu trúc mạch máu thần kinh chi phối cho chi trên. Bệnh nhân thường có tiền sử chấn thương vùng đầu và cổ.

Triệu chứng cơ năng và thực thể xuất hiện do sự chèn ép từng lúc hoặc thường xuyên lên các thành phần của bó mạch thân kinh cánh tay và các mạch máu vùng nách hoặc dưới đòn do các cấu trúc giải phẫu vùng vai. Bó mạch thần kinh có thể bị ép giữa các cơ thang trước hoặc cơ thang giữa và xương sườn ngực bình thường thứ nhất hoặc xương sườn cổ. Tình trạng xuôi vai có thể còn tiếp tục ở tuổi trưởng thành và gây ra chèn ép. Sai tư thế, bệnh mạn tính và nghề nghiệp có thể là những yếu tố gây bệnh khác. Các thành phần của thần kinh giữa quanh vùng động mạch nách có thể gáy ra chèn ép và các triệu chứng mạch máu. Các động tác thực thể đột ngột hoặc nhắc đi nhắc lại có thể gây "huyết khối do gắng sức" của tĩnh mạch nách hoặc dưới đòn.

Đau có thể lan từ điểm bị chèn ép tới vung nền cổ, nách, vai, cánh tay, cẳng tay và bàn tay. Dị cảm thường gặp và thường xuất hiện ở vùng gan bàn tay của các ngón thứ tư và năm. Các triệu chứng cảm giác thường tăng lên vào ban đêm hoặc khi bàn tay phải làm việc nhiều. Yếu và teo cơ là những rối loạn vận động thường gặp. Các triệu chứng về mạch máu gồm thiếu máu động mạch gây xanh nhợt các ngón khi nâng cao tay, nhậy cảm với lạnh, và hiếm hơn là hoại thư các ngón hoặc tắc nghẽn tĩnh mạch gây ra phù, tím và xung huyết.

Các phản xạ thường không thay đổi. Khi vị trí chèn ép ở giữa mặt trên xương sườn và xương đòn, sự tác nghẽn một phần của động mạch dưới đòn có thể xuất hiện khi dạng tay tới một góc lớn, khuỷu gấp và xoay ngoài so với vai sao cho toàn bộ chi trên nằm trên một mặt phẳng trán đỉnh. Vị trí của cổ và cánh tay không ảnh hưởng tói mạch trong hội chứng "cướp" máu dưới đòn.

X quang có ích trong chẩn đoán phân biệt. Chụp X quang lồng ngực sẽ phát hiện được những bệnh nhân có các xương sườn cổ. Chụp cộng hưởng từ hạt nhân với các tư thể của cánh tay khác nhau có ích để xác định những vị trí làm suy giảm dòng máu. Tắc nghẽn trong lòng động mạch, hoặc tĩnh mạch được khẳng định nhờ chụp mạch. Đánh giá tốc độ dẫn truyền dây thần kinh trụ hoặc các dây thần kinh ngoại vi khác của chi trên có thể giúp xác định vị trí mà chúng bị chèn ép.

Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực cần phải phân biệt với những triệu chứng của thoái hòá cột sống cổ, các khối u của tủy cổ hoặc của các rễ thần kinh, viêm quanh khớp vai và những hội chứng cổ cánh tay khác.

Điều trị bảo tồn nhằm mục đích làm suy giảm sự chèn ép các bó mạch thần kinh. Bệnh nhân cần được hướng dẫn tránh những hoạt động thực thể có thể làm phát động bệnh hoặc làm cho bệnh nặng lên. Bài tập kiểu ròng rọc vòng qua đầu có ích để cải thiện tư thế. Xoa bóp vùng vai, mặc dù bệnh nhân hơi khó chịu song có thể tạo ra một sự kích thích thường xuyên nhằm cải thiện tư thế. Khi nằm, hai vai nên được kê bằng những cái gối xếp theo tư thế đôi nhau hình chữ V.

Các triệu chứng có thể hết tự nhiên hoặc sau những biện pháp điều trị bảo tồn. Điều trị ngoại khoa chủ yếu để giải phóng những cấu trúc thần kinh gây ra triệu chứng hơn là đối với những cấu trúc mạch máu.

Bài viết cùng chuyên mục

Hội chứng đau cổ cánh tay

Nguyên nhân đau cổ gồm căng cứng hoặc vẹo cổ cấp hoặc mạn tính, thoát vị nhân nhày đĩa đệm, thoái khớp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp dạng thấp

Bệnh viêm cột sống dính khớp

Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng có xu hướng lan dần lên phía đầu, vận động cột sống trở nên hạn chế, mất đường cong sinh lý bình thường của cột sống thắt lưng.

Viêm nút đa động mạch

Viêm đa động mạch đặc trưng bởi tổn thương cục bộ hoặc từng đoạn của các mạch máu, đặc biệt là các động mạch nhỏ và trung bình, gây ra những biểu hiện lâm sàng khác nhau.

Hoại tử xương vô khuẩn

Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.

Viêm khớp do lậu

Trong hầu hết các trường hợp, nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp do lậu nên nhập viện để khẳng định chẩn đoán, để loại trừ viêm nội tâm mạc và bắt đầu điều trị.

Bệnh calci hóa sụn và giả gút

Không giống bệnh gút, bệnh nhân bị bệnh giả gút thường có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường, và kém đáp ứng với điều trị bằng colchicin

Đánh giá và chẩn đoán bệnh cơ xương khớp

Làm các thăm dò xét nghiệm để hoàn thiện việc đánh giá. Những xét nghiệm thông thường gồm tốc độ lắng máu, phản ứng tìm yếu tố dạng thấp, kháng thể kháng nhân

Viêm bao thanh dịch

Viêm bao thanh dịch có thể do nhiễm khuẩn. Hai vị trí thường bị là mỏm khủyu và trước xương bánh chè. Viêm bao thanh dịch cấp ở hai vị trí này cần chọc dò để loại trừ nguyên nhân nhiễm khuẩn.

Bệnh hỗn hợp của mô liên kết

Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.

Hội chứng Reiter

Hội chứng Reiter cần phải phân biệt với viêm khớp do lậu, đặc biệt khi viêm kết mạc nhẹ hoặc bị bỏ qua, Viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp tiên phát.

Bệnh thiểu sản xương: bệnh giòn xương

Dạng thứ hai là thiểu sản xương muộn, trong đó gẫy xương và biến dạng xương xuất hiện sau khi đẻ. Xương dòn, dễ gãy là một tiêu chuẩn rõ ràng nhất cho chẩn đoán.

Viêm quanh khớp vai

Khởi phát của đau, tăng lên khi vận động khớp vai quá mức, có thể cấp tính hoặc từ từ. Đau có thể khó chịu nhất vào ban đêm và tăng lên khi nằm ngủ đè lên tay bị bệnh ở tư thế nằm nghiêng.

Viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân có viêm mạn tính màng hoạt dịch của nhiều khâp, mà nguyên nhân chưa rõ, Bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú.

Những biểu hiện khớp trong nhiễm HIV

Viêm gân Achille hoặc viêm quanh khớp gối, như trong hội chứng Reiter cổ điển, là những dấu hiệu thường nổi bật và rất đặc trưng.

Bệnh thoái khớp (hư khớp)

Bệnh được đặc trựng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ. Những yếu tố di truyền và cơ học ít nhiều có liên quan đến có chế bệnh sinh của bệnh.

Biểu hiện thấp khớp trong ung thư

Bệnh bạch cầu tế bào tóc có thể phối hợp với viêm các mạch máu cỡ trung bình, như bệnh viêm nút đa động mạch, Bệnh bạch cầu cấp có thể gây đau khớp.

Bệnh u hạt Wegener

Mặc dù có thể có dạng u hạt Wegener giới hạn mà trong đó không có tổn thương thận, song thông thường sẽ xuất hiện bệnh thận tiến triển nặng và gây suy thận nhanh chóng.

Bệnh Cryoglobulin huyết

Những bất thường trong xét nghiệm chức năng gan, đau bụng, bệnh tim và bệnh phổi cũng có thể xuất hiện. Chẩn đoán dựa trên bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt và phản ứng huyết thanh dương tính với cryoglobulin.

Viêm nhiều sụn tái phát

Bệnh thường tiến triển từng đợt, tỷ lệ nam nữ bị bệnh ngang nhau. Sụn sưng, đau trong đợt cấp và hậu quả là trở nên teo nhỏ, gây biến dạng vĩnh viễn. Sinh thiết sụn tổn thương thấy viêm và tiêu sụn.

Ban xuất huyết Henoch-Schonlein

Đây là một dạng phát ban mà nguyên nhân chưa rõ; đặc trưng cơ bản về mặt giải phẫu bệnh là viêm mạch máu nhỏ. Mặc dù bệnh thường gặp ở trẻ em song người lớn cũng có thể bị.

Viêm khớp trong bệnh sarcoid

Tuy viêm khớp sarcoid thường kèm theo ban đỏ dạng nốt, song chẩn đoán lại dựa vào sự có mặt của những biểu hiện ngoài khớp khác của bệnh sarcoid.

Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh: bệnh charcot

Khi trương lực cơ bình thường và những phản xạ bảo vệ bị mất, bệnh khớp thoái hóa thứ phát đã xuất hiện, làm cho khớp trở nên yếu, to ra.

Viêm khớp mãn tính thiếu niên

Các bất thường về sự phát triển của có thể và sự phát triển của bộ xương liên qiian đến sự tiến triển cấp tính của bệnh, có thể chỉ là tạm thời và thường hồi phục.

Cốt tủy viêm cấp do vi khuẩn sinh mủ

Trong số những bệnh nhân bị các bệnh huyết sắc tố, cốt tủy viêm do vi khuẩn thương hàn thường gặp gấp 10 lần so với những vi khuẩn sinh mủ khác.

Luput ban đỏ hệ thống

Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.