Đau thắt lưng

2016-12-18 01:53 PM

Thăm khám thực thể cũng rất quan trọng, bởi vì những triệu chứng như sốt, tăng huyết áp, hạch to, có khối u ở bụng, ở khung chậu hay ở trực tràng

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Khi tiếp cận một bệnh nhân đau thắt lưng không chấn thương cần biết một số điểm sau đây. Thứ nhất, đau thắt lưng là một tình trạng rất phổ biến, các số liệu cho thấy tỷ lệ có thể đạt tới 80% dân số. Thứ hai, chẩn đoán phân biệt đau thắt lưng rất rộng, bao gồm những bệnh lý toàn thân (như ung thư di căn), bệnh lý tiên phát của một cột sống (như thoái vị đĩa đệm, thoái hóa) và những bệnh lý của các cơ quan lân cận (như phình động mạch chủ), đều có thể gây đau vùng thắt lưng. Thứ ba là phần lớn trong các trường hợp người ta không thể chẩn đoán chính xác nguyên nhân gây bệnh. Những cái tên thường được dùng như “căng dãn cột sống”, “trẹo cột sống” hay chứng đau lưng đã nói lên tính chất chung chung, không xác đáng trong vân đề chẩn đoán. Thậm chí ngay cả khi có mặt của một số bất thường về cột sống như mỏ xương đốt sống, hẹp đĩa đệm cũng không thể coi đó là bệnh lý, bởi vì những bất thường như thể rất phổ biến ở những bệnh nhân không có triệu chứng. Thứ tư, phần lớn bệnh nhân đều lui bệnh sau 1- 4 tuần điều trị bảo tồn và không cần thiết phải thăm khám, xét nghiệm gì thêm. Do đó vấn đề đặt ra trong chẩn đoán là phải xác định trong số nhiều bệnh nhân đau thắt lưng một số ít đối tượng cần thiết phải thăm dò thêm và đánh giá khẩn trương.

Trên thực tế, điều đó có nghĩa là cần tìm những nguyên nhân gây đau lưng như: (1) nhiễm khuẩn, (2) ung thư, (3) bệnh lý viêm cột sống như viêm cột sống dính khớp, (4) hoặc những tình trạng không phải bệnh lý thấp khớp, đặc biệt là dò túi phình động mạch chủ. Những dấu hiệu thần kinh điển hình hoặc tiến triển tăng dần cũng cần phải lưu ý. Nếu không có bất kỳ bằng chứng nào của các tổn thương trên thì chỉ cần điều trị bảo tồn.

Tiền sử và thăm khám chung

Sai lầm thường gặp nhất khi đánh giá một bệnh nhân đau thắt lưng là không hỏi bệnh và thăm khám thực thể một cách đầy đủ. Đau thắt lưng thường là biểu hiện cuối cùng của nhiều bệnh lí, ví dụ đau do cốt tủy viêm đốt sống không khác nhiều về tính chất và mức độ so với đau do căng dãn cột sống ở những người làm vườn. Khi có mặt những yếu tố tiền sử quang trọng như hút thuốc lá, sụt cân, tuổi cao và ung thư ở đâu đó cần phải nghĩ nhiều đến khả năng ung thư di căn đến đốt sống. Cốt tủy viêm thường xuất hiện ở người lớn có tiền sử nhiễm khuẩn tiết niệu tái đi tái lại, đặc biệt ở những bệnh nhân đái tháo đường.

Bệnh nhân có tiền sử loét dạ dày có thể đau lưng dai dẳng do loét thâm nhiễm. Tiền sử có các tiếng thổi ở tim cũng cần nghĩ tới khả năng viêm nội tâm mạc mà ở bệnh này đau lưng không phải là một triệu chứng hiếm gặp. Tiền sử có sỏi thận có thể gợi ý nguyên nhân đau lưng là do sỏi.

Thăm khám thực thể cũng rất quan trọng, bởi vì những triệu chứng như sốt, tăng huyết áp, hạch to, có khối u ở bụng, ở khung chậu hay ở trực tràng là những đầu mối quan trọng để phát hiện những nguyên nhân ngoài cột sống gây đau lưng.

Tiền sử đau lưng

Trong khi phần lớn đau lưng không có tính chất đặc trưng thì một số tính chất đau của bệnh nhân lại có thể gợi ý một chẩn đoán đặc hiệu. Đau thần kinh toạ, với đau vùng thắt lưng, lan xuống mông và dưới gối gợi ý nguyên nhân thoát vị đĩa đệm gây kích thích rễ thần kinh. Một số tình trạng khác như viêm khớp vùng chậu, hẹp ống sống, kích thích thần kinh toạ cũng có thể gây đau thần kinh toạ.

Để chẩn đoán thoát vị đĩa đệm cần thăm khám thực thể và xác định chẩn đoán bằng một số thăm dò hình ảnh. Thoát vị đĩa đệm có thể không có triệu chứng và do đó sự có mặt của nó thường không có mối liên quan ổn định với các triệu chứng.

Đau tồn tại vào ban đêm, không giảm khi nghỉ ngơi hoặc khi nằm, gợi ý khả năng một bệnh lý ác tính, có thể di căn vào thân đốt sống hoặc có khối u vùng đuôi ngựa.

Khi bệnh nhân có các dấu hiệu thần kinh rõ ràng hoặc xuất hiện nhanh, cần khẩn trương thăm dò để phát hiện khả năng có khối u vùng đuôi ngựa, áp xe vùng màng cứng hoặc hiếm hơn là thoát vị đĩa đệm ở mức độ nặng. Ngay cả khi có thoát vị đĩa đệm và có chèn ép rễ thần kinh, thì đau thường vẫn là triệu chứng nổi bật, tê bì và yếu chi ít gặp hơn và thường chỉ xuất hiện khi một rễ thần kinh bị chèn ép kéo dài. Do vậy khi bệnh nhân có yếu chân hai bên (do chèn ép nhiều rễ thần kinh thắt lưng), hoặc có mất cảm giác vùng yên ngựa, đái ỉa không tự chủ hoặc liệt dương (dấu hiệu chèn ép nhiều rễ dây thần kinh cùng) là các dấu hiệu thần kinh nặng không điển hình, đòi hỏi phải đánh giá khẩn trương.

Đau thắt lưng tăng lên khi nghỉ ngơi, giảm khi hoạt động là đặc trưng của bệnh viêm cột sống dính khớp hoặc những bệnh cột sống huyết thanh âm tính khác, đặc biệt khi đau xuất hiện từ từ và bắt đầu trước tuổi 40. Hầu hết các bệnh nhân đau lưng do thoái hóa có tính chất hoàn toàn ngược lại, giảm khi nghỉ ngơi và tăng khi hoạt động.

Đau lưng cấp tính, lăn lộn thường xuất hiện ở bệnh nhân có sỏi thận, nhưng cũng có thể do dò túi phình động mạch.

Đau thắt lừng kèm theo dấu hiệu giả cách hồi thường do hẹp ống sống. Điển hình bệnh nhân trên 60 tuổi, đau thắt lừng vừa phải, khó chịu nhiều ở vùng hông, đùi và cẳng chán, xuất hiện khi đi bộ (giống đau cách hồi thật), nhưng lại có thể đau tăng khi đứng lâu (không giống cách hồi). Khó chịu thường xuất hiện ở cả hai chân. Cổ điển người ta thấy đau thường giảm khi nghỉ ngơi, hoặc khi cúi gập cột sống thát lưng; bệnh nhân cảm thấy đi lên dốc dễ dàng hơn đi xuống dốc. Một số bệnh nhân lại ít thấy khó chịu ở cẳng chân mà chủ yếu là yếu chân liên quan tới gắng sức, hoặc không thể giữ vũng cẳng chân.

Thăm khám vùng thắt lưng

Mặc dù việc thăm khám thắt lưng thường không giúp tìm ra được nguyên nhân đặc hiệu, tuy nhiên một số dấu hiệu thực thể rất có giá trị để phát hiện một số ít đối tượng cần thiết phải điều trị tích cực.

Thăm khám thần kinh chi dưới để xác định những rối loạn nhẹ do bệnh lý đĩa đệm và những tổn thương lớn do các khối u vùng đuôi ngựa. Dấu hiệu nâng chân cao với gối duỗi thẳng (dấu hiệu Lasegue) dương tính chứng tỏ có kích thích rễ thần kinh. Bệnh nhân nằm ở tư thế nằm ngửa, người khám nâng chân bệnh nhân lên một cách thụ động. Nghiệm pháp dương tính nâng chân cao trên 60° đã gây ra đau kiểu rễ. Nghiệm pháp này không đặc hiệu song đạt độ nhậy 95% ở những bệnh nhân thoát vị đĩa đệm L4 - 5 hoặc L5 - S1 (95% thoát vị đĩa đệm xuất hiện ở những vị trí này). Nghiệm pháp có thể âm tính giả, đặc biệt khi bệnh nhân có thoát vị đĩa đệm trên mức L4 - 5.

Dấu hiệu chân duỗi thẳng bắt chéo ít nhậy hơn nhưng đặc hiệu hơn nhiều trong thoát vị đĩa đệm. Nghiệm pháp này dương tính khi ta nâng cao chân bên kia gây ra đau thần kinh toạ.

Thăm khám tỉ mí các rễ thần kinh vùng thắt lưng cùng, đặc biệt L5 và S1 rất cần thiết phát hiện các dấu hiệu thần kinh phối hợp với đau lưng. Thoát vị đĩa đệm có thể gây ra những triệu chứng thần kinh giúp ta xác định được vị trí tổn thương. Triệu chứng tổn thương nhiều rễ thần kinh gợi ý có khối u vùng đuôi ngựa hay một ổ áp xe ngoài màng cứng, hoặc một số bệnh lý quan trọng khác cặn phải chẩn đoán và điều trị khẩn trương.

Đánh giá vận động cột sống hiếm khi có ý nghĩa chẩn đoán ở những bệnh nhân đau lưng cấp và đơn giản nó chỉ nói lên là đau có gây ra hạn chế vận động hay không. Duy chỉ có một dấu hiệu là giảm vận động nhiều đoạn cột sống (cổ, lưng, thắt lưng) thường chỉ ra một bệnh lý lan toả của toàn bộ cột sống như viêm cột sống dính khớp. Tuy nhiên, khi bệnh nhân đã có biểu hiện này, chẩn đoán viêm cột sống dính khớp cũng đã rõ.

Nếu đau lưng không nặng nề và bản thân nó không gây hạn chế cử động cột sống, thì nghiệm pháp Schober đáng giá vận động cột sống thát lưng có ích trong chẩn đoán sớm viêm cột sống dính khớp. Để làm nghiệm pháp này, đánh dấu 2 điểm, một điểm phía trên đốt S1 10 cm và điểm thứ hai ở dưới đốt S1 5 cm. Sau đó bảo bệnh nhân cúi gập người tối đa, đo lại khoảng cách giữa hai điểm trên. Bình thường độ giãn ít nhất 5 cm. Dưới mức này, chứng tỏ có hạn chế vận động và khi kèm đau lưng ở mức độ không nặng, thường gặp nhất trong viêm cột sống dính khớp hoặc viêm cột sống huyết thanh âm tính khác.

Sờ nắn cột sống thường cũng đem lại những thông tin có ích cho chẩn đoán. Điểm đau xuất hiện trên vùng thân đốt sống gợi ỷ cốt tủy viêm, tuy nhiên khả năng này cũng ít xảy ra. Dấu hiệu bậc thang giữa các mỏm gai của các thân cột sống kế cận có thể chỉ ra tình trạng trượt thân đốt sống, song độ nhạy của nó thấp. Đau phần mềm vùng mấu chuyển lớn xương đùi là biểu hiện của viêm bao thanh mạc mấu chuyển.

Quan sát cột sống thường không có giá trị để phát hiện những bệnh lý nậng gây đau thắt lưng. Tư thế cổ điển trong viêm cột sống dính khớp thường xuất hiện muộn. Ưỡn cột sống ở mức độ nhẹ ít liên quan tới bệnh lý lâm sàng vùng thắt lưng. U xơ thần kinh dưới da cổ ở một số rất ít bệnh nhân có các túi rễ thần kinh.

Khám khớp háng là một phần trong thăm khám bệnh nhân đau thắt lưng. Mặc dù viêm khớp háng thường hay gây đau vùng bẹn, song một số bệnh nhàn lại có các triệu chứng ở vùng mòng hoặc thắt lưng.

Bảng. Các dấu hiệu của tổn thương thần kinh thắt lưng cùng

Rễ thần kinh

Vận động

Phản xạ

Vùng cảm giác

L4

Gập mu chân

Gân gối

Mặt trong cẳng chân

L5

Gập ngón cái về phía mu bàn chân

Không

Mặt trước trong

S1

Duỗi bàn chân, về phía gan chân

Gân gót

Mặt ngoài bàn chân

Những thăm dò bổ sung

Nếu qua hỏi bệnh và thăm khám thực thể không phát hiện những nguyên nhân như nhiễm khuẩn, ung thư, các bệnh viêm cột sống, không có dấu hiệu thần kinh rõ ràng hoặc không phải đau lưng do bệnh lý ở tiểu khung hay ổ bụng thì chỉ cần điều trị bảo tồn, không cần thiết phải làm thêm các thăm dố. Phần lớn bệnh nhân sẽ đỡ trong vòng 1- 4 tuần.

Chụp X quang thường quy cột sống thắt lưng cùng có liều tia xạ cao gấp 20 lần so với chụp X quang tim phổi và đem lại những thông tin tuy quan trọng song rất hạn chế. Trên X quang có thể thấy hình ảnh cốt tủy viêm thân đốt sống, ung thư, gãy xương hoặc viêm cột sống dính khớp. Những hình ảnh của thoái hóa cột sống thắt lưng thường gặp ở những người trên 40 tuổi, và không thể cho đó là nguyên nhân gây ra những triệu chứng lâm sàng. X quang thường quy có độ nhạy và độ đặc hiệu rất thấp trong chẩn đoán bệnh lý đĩa đệm. Vì vậy chụp X quang thường được chỉ định cho những bệnh nhân nghi ngờ có nhiễm khuẩn, ung thư, gãy xương, hoặc có biểu hiện viêm. Một số bệnh nhân khác, không đỡ sau 2 - 4 tuần điều trị bảo tồn cũng có chỉ định chụp. Chụp cộng hưởng từ và chụp cắt lớp vi tính có thể cho biết những chi tiết về giải phẫu, nhưng chỉ nên dành cho bệnh nhân đòi hỏi phải thay đổi chế độ điều trị. Những thăm dò này nên được tiến hành khẩn trương ở bất kì bệnh nhân nào nghi ngờ có khối u ngoài màng cứng hoặc khôi u vùng đuôi ngựa. Những bệnh nhân nghi ngờ có thoát vị đĩa đệm, không cần thiết phải chụp ngay. Vì hầu hết các bệnh nhân sẽ đỡ sau 4 - 6 tuần điều trị bảo tồn, cho nên chỉ làm những thăm dò này khi điều trị bảo tồn không kết qụả và có chỉ định điều trị ngoại khoa. Giá trị tương đối của chụp cộng hưởng từ so với chụp cắt lớp vi tính vẫn còn bàn cãi. Chụp nhấp nháy bằng đồng vị phóng xạ hạn chế sử dụng cho những bệnh nhân đau thắt lưng. Nó rất có ích để xác định cốt tủy viêm thân đốt sống hoặc di căn ung thư. Hình ảnh nhấp nháy thường là bình thường trong đa u tủy xương vì những tổn thương tiêu xương không bắt đồng vị phóng xạ. Xét nghiệm máu (công thức máu, calci, phosphatase kiềm, điện di protein huyết thanh, tốc độ máu lắng) và xét nghiệm nước tiểu nên làm sớm cho những bệnh nhân nghi ngờ có nhiễm khuẩn hoặc bệnh lý ác tính. Các thăm dò điện sinh lý học có ích để xác định chẩn đoán hẹp ống sống.

Điều trị

Mặc dù việc điều trị đòi hỏi phải được cụ thể hóa ở từng bệnh nhân, song những biện pháp chủ yếu trong điều trị bảo tồn đau thắt lưng là nghỉ ngơi, giảm đau, và giáo dục bệnh nhân. Trung bình hai ngày nằm nghỉ tại giường cũng có hiệu quả bằng 7 ngày để giảm đau trong điều trị đau thẩn kinh toạ cấp, tuy nhiên có sự thay đổi lớn giữa các bệnh nhân. Để giảm đau, có thể phải dùng các thuốc chống viêm không steroid, với những bệnh nhân đau nhiều có thể phải dùng tới các chế phẩm thuốc phiện (opiat). Rất hiếm trường hợp phải dùng các chế phẩm thuốc phiện kéo dài trên 1- 2 tuần và chống chỉ định dùng những thuốc này cho bệnh nhân đau thắt lưng mạn tính.

Tác dụng của các thuốc dãn cơ như diazepam, cyclobenzaprin, carisoprodol và methocarbamol chưa rõ ràng. Những thuốc này chỉ nên dùng trong thời gian 1- 2 tuần và không nên dùng cho người già vì thuốc có thể làm cho bệnh nhân rất dễ bị ngã. Cần hướng dẫn cho tât cả các bệnh nhân cách bảo vệ cột sống của họ trong các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như không nên nâng, xách những vật nặng, nên dùng lực của chân nhiều hơn của lưng khi nâng đồ vật, nên sử dụng ghế có tay vịn và khi đang nằm muôn ngồi dậy đầu tiên nên nghiêng người một bên sau đó dùng tay để nâng người lên. Những thây thuốc vật lý trị liệu là những người hướng dẫn tốt nhất cho bệnh nhân.

Giá trị của các phưong pháp dùng đai yếm hoặc kéo dãn liên tục không rõ ràng. Các bài tập cột sống chống chỉ định trong đau thắt lưng cấp, tuy nhiên những bài tập ưỡn cột sống có thể phần nào tránh đau tái phát. Tác dụng của tiêm corticosteroid ngoài màng cứng trong đau thần kinh toạ còn chưa thống nhất. Tiêm corticosteroid vào các khớp liên mỏm đốt sống không có hiệu quả trong điều trị đau thắt lưng mạn tính.

Cần xem xét điều trị ngoại khoa cho bất kì bệnh nhân nào có triệu chứng thần kinh nặng hay ngày một tiến triển. Điều trị phẫu thuật trong thoát vị đĩa đệm được chỉ định ở những bệnh nhân có bằng chứng của thoát vị qua thăm dò hình ảnh, đau lưng dai dẳng, và có những triệu chứng thần kinh tồn tại kéo dài, không đỡ sau 4 - 6 tuần điều trị bảo tồn. Phương pháp lấy đĩa đệm vùng thắt lưng qua da bằng gây tê tại chỗ là một phương pháp an toàn, có hiệu quả so với phương pháp cắt cung đốt sống, ở những bệnh nhân được lựa chọn. Phương pháp phẫu thuật qua da chống chỉ định ở những bệnh nhân có khối u, nhiễm khuẩn, trượt thân đốt sống, hẹp lỗ đốt sống, đĩa đệm vụn nhiều mảnh, hoặc có viêm các khớp liên mỏm đốt sông nặng.

Khi bệnh nhân được chọn lựa cẩn thận, phương pháp lấy đĩa đệm qua da đạt tỷ lệ thành công tới 70 - 75%. Những bệnh nhân kêu mệt mỏi, đau, yếu lưng (thường là đau không nặng) và không có các dấu hiệu khách quan, gợi ý nguyên nhân do những rối loạn về tâm thần. Đau lưng do yếu tố tâm lý có thể rất nặng và đôi khi tăng lên một cách nhanh chóng. Cần tìm hiểu tiền sử những vấn đề thuộc gia đình và liên quan tới công việc. Điều trị bao gồm việc an ủi động viên bệnh nhân và sử dụng một cách thận trọng thuốc giảm đau và an thần nhẹ.

Những bệnh nhân có đau cổ hoặc lưng cơ năng có thể liên quan đến vấn đề tài chính hoặc giả ốm vì những lý do mà họ muốn. Cả hai loại bệnh nhân này đều có những phàn nàn một cách chủ quan mà không có một dấu hiệu khách quan nào khi thăm khám. Những thầy thuốc lâm sàng có kinh nghiệm có thể xác định được người giả ốm hoặc những bệnh nhân có đau cổ hoặc đau lưng cơ năng. Cách tốt nhất nên nói thẳng cho bệnh nhân biết là không phát hiện được bất kì bệnh lý nào có thể gây ra những triệu chứng mà họ phàn nàn.

Bài viết cùng chuyên mục

Những biểu hiện khớp trong nhiễm HIV

Viêm gân Achille hoặc viêm quanh khớp gối, như trong hội chứng Reiter cổ điển, là những dấu hiệu thường nổi bật và rất đặc trưng.

Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp không do lậu

Việc sử dụng nội soi ngày càng rộng rãi và những phẫu thuật thay khớp nhân tạo đã làm cho tỉ lệ viêm khớp nhiễm khuẩn tăng lên.

Viêm đa cơ - viêm da cơ

Viêm đa cơ là một bệnh hệ thống mà nguyên nhân chưá rõ, biểu hiện chủ yếu của bệnh là yếu cơ, Đây là một bệnh cơ nguyên phát thường gặp nhất ở người lớn.

Hoại tử xương vô khuẩn

Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.

Biểu hiện thấp khớp trong ung thư

Bệnh bạch cầu tế bào tóc có thể phối hợp với viêm các mạch máu cỡ trung bình, như bệnh viêm nút đa động mạch, Bệnh bạch cầu cấp có thể gây đau khớp.

Bệnh thiểu sản xương: bệnh giòn xương

Dạng thứ hai là thiểu sản xương muộn, trong đó gẫy xương và biến dạng xương xuất hiện sau khi đẻ. Xương dòn, dễ gãy là một tiêu chuẩn rõ ràng nhất cho chẩn đoán.

Viêm khớp trong bệnh sarcoid

Tuy viêm khớp sarcoid thường kèm theo ban đỏ dạng nốt, song chẩn đoán lại dựa vào sự có mặt của những biểu hiện ngoài khớp khác của bệnh sarcoid.

Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh: bệnh charcot

Khi trương lực cơ bình thường và những phản xạ bảo vệ bị mất, bệnh khớp thoái hóa thứ phát đã xuất hiện, làm cho khớp trở nên yếu, to ra.

Các khối u và những tổn thương giống khối u của xương

Các khối u tiên phát của xương tương đối hiếm gặp so với các khối u thứ phát hoặc di căn, Tuy nhiên chúng có ý nghĩa lớn trên lâm sàng bởi vì có nhiều khả năng ung thư.

Lao xương khớp

Hầu hết những nhiễm khuẩn do lao ở Mỹ do vi khuẩn lao người Mycobacterium tuberciilosis gây ra, Nhiễm khuẩn hệ thống xương khớp do sự lan tràn trên đường máu.

Nhiễm khuẩn xương và khớp do nấm

Phân biệt với những ổ nhiễm khuẩn mạn tính khác dựa vào kết quả nuôi cấy dịch khớp hoặc tổ chức lấy từ ổ tổn thương. Các phản ứng huyết thanh cung cấp những bằng chứng có ích cho chẩn đoán.

Cốt tủy viêm cấp do vi khuẩn sinh mủ

Trong số những bệnh nhân bị các bệnh huyết sắc tố, cốt tủy viêm do vi khuẩn thương hàn thường gặp gấp 10 lần so với những vi khuẩn sinh mủ khác.

Viêm khớp do virus

Viêm đa khớp có thể phối hợp với viêm gan B và điển hình thường xuất hiện trước khi bắt đầu có vàng da, nó cũng có thể xuất hiện trong viêm gan không vàng da.

Viêm khớp do lậu

Trong hầu hết các trường hợp, nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp do lậu nên nhập viện để khẳng định chẩn đoán, để loại trừ viêm nội tâm mạc và bắt đầu điều trị.

Thấp khớp hay tái phát

Thấp khớp hay tái phát là một bệnh không rõ nguyên nhân đặc trưng bởi những đợt viêm cấp không tái phát, Sưng đau khớp ngoại vi và nổi hạt dưới da tạm thời có thể xuất hiện.

Viêm khớp và các bệnh viêm ruột

Trên thực tế, viêm khớp ổn định thì ỉa chảy xuất hiện. Do vậy, bệnh Whiple nên được xem xét trong chẩn đoán phân biệt những trường hợp viêm khớp từng đợt không lý giải được.

Hội chứng Reiter

Hội chứng Reiter cần phải phân biệt với viêm khớp do lậu, đặc biệt khi viêm kết mạc nhẹ hoặc bị bỏ qua, Viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp tiên phát.

Viêm khớp vảy nến

Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.

Bệnh viêm cột sống dính khớp

Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng có xu hướng lan dần lên phía đầu, vận động cột sống trở nên hạn chế, mất đường cong sinh lý bình thường của cột sống thắt lưng.

Hội chứng Behort

Triệu chứng lâm sàng gồm liệt dây thần kinh sọ, co giật, viêm não, rối loạn tâm thần và tổn thương tủy sống. Thường có tăng bạch cầu và tăng tốc độ lắng máu.

Viêm nhiều sụn tái phát

Bệnh thường tiến triển từng đợt, tỷ lệ nam nữ bị bệnh ngang nhau. Sụn sưng, đau trong đợt cấp và hậu quả là trở nên teo nhỏ, gây biến dạng vĩnh viễn. Sinh thiết sụn tổn thương thấy viêm và tiêu sụn.

Ban xuất huyết Henoch-Schonlein

Đây là một dạng phát ban mà nguyên nhân chưa rõ; đặc trưng cơ bản về mặt giải phẫu bệnh là viêm mạch máu nhỏ. Mặc dù bệnh thường gặp ở trẻ em song người lớn cũng có thể bị.

Bệnh Cryoglobulin huyết

Những bất thường trong xét nghiệm chức năng gan, đau bụng, bệnh tim và bệnh phổi cũng có thể xuất hiện. Chẩn đoán dựa trên bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt và phản ứng huyết thanh dương tính với cryoglobulin.

Bệnh u hạt Wegener

Mặc dù có thể có dạng u hạt Wegener giới hạn mà trong đó không có tổn thương thận, song thông thường sẽ xuất hiện bệnh thận tiến triển nặng và gây suy thận nhanh chóng.

Bệnh đau nhiều cơ do thấp và viêm động mạch tế bào khổng lồ

Khi có đau đầu và những triệu chứng khác gợi ý viêm động mạch sọ não, cần bắt đầu dùng ngay prednison 60 mg một ngày để đề phòng mù mắt, sinh thiết động mạch thái dương cũng nên được tiến hành ngay.

Viêm nút đa động mạch

Viêm đa động mạch đặc trưng bởi tổn thương cục bộ hoặc từng đoạn của các mạch máu, đặc biệt là các động mạch nhỏ và trung bình, gây ra những biểu hiện lâm sàng khác nhau.

Hội chứng Sjogren

Viêm kết giác mạc khô do giảm tiết nước mắt, gây nên bởi sự thâm nhiễm tế bào lympho và tương bào vào các tuyến lệ. Triệu chứng gồm nóng rát, ngứa, tiết rỉ mắt và không chảy nước mắt khi khóc.

Bệnh hỗn hợp của mô liên kết

Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.

Xơ cứng bì toàn thể

Xơ cứng bì toàn thể là một bệnh mạn tính đặc trưng bởi xơ cứng lan toả của da và tổn thương các nội tạng, Nguyên nhân của bệnh chưa rõ, song có vai trò của yếu tố tự miễn dịch.

Luput ban đỏ hệ thống

Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.

Viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân có viêm mạn tính màng hoạt dịch của nhiều khâp, mà nguyên nhân chưa rõ, Bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú.

Viêm khớp mãn tính thiếu niên

Các bất thường về sự phát triển của có thể và sự phát triển của bộ xương liên qiian đến sự tiến triển cấp tính của bệnh, có thể chỉ là tạm thời và thường hồi phục.

Những chấn thương do chạy nhảy

Những hậu quả không tốt này có thể ngăn chặn bằng những biện pháp đề phòng như áp dụng những bài tập kéo duỗi, đi giầy hợp lí, tránh chạy quá sức và lưu ý kịp thời những sang chấn

Viêm bao thanh dịch

Viêm bao thanh dịch có thể do nhiễm khuẩn. Hai vị trí thường bị là mỏm khủyu và trước xương bánh chè. Viêm bao thanh dịch cấp ở hai vị trí này cần chọc dò để loại trừ nguyên nhân nhiễm khuẩn.

Loạn dưỡng giao cảm phản xạ

Tiên lượng phụ thuộc một phần vào giai đoạn bệnh, những tổn thương đã xuất hiện và phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh lý nội tạng phôi hợp. Điều trị sớm, khả năng hồi phục sẽ tôt hơn.

Bệnh co thắt Dupuytren

Co thắt Dupuytren có biểu hiện bằng sự dầy lên của bao cân gan tay dạng nốt hoặc giống như dây thừng ờ một hoặc hai bàn tay và thường ảnh hưởng tới các ngón thứ tư và thứ năm.

Hội chứng đường hầm cổ tay

Hội chứng này cần phải phân biệt với các hội chứng đau cổ cánh tay khác, hội chứng chèn ép thần kinh giữa vùng cẳng hoặc cánh tay, bệnh viêm một dây thần kinh.

Bệnh viêm mô sợi

Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.

Viêm lồi cầu

Dùng một băng chun quân phía trên cẳng tay có thể làm cho bệnh nhân dễ chịu hơn mỗi khi bệnh nhân phải mang xách nặng.

Viêm quanh khớp vai

Khởi phát của đau, tăng lên khi vận động khớp vai quá mức, có thể cấp tính hoặc từ từ. Đau có thể khó chịu nhất vào ban đêm và tăng lên khi nằm ngủ đè lên tay bị bệnh ở tư thế nằm nghiêng.

Viêm gân lắng đọng Calci vùng vai cánh tay

Viêm gán lắng đọng calci cần phải phân biệt với những hội chứng đau cổ cánh tay khác, viêm khớp mủ, thoái khớp, gút, các khối u đỉnh phổi Pancoast và đứt bao xoay.

Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực

Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực cần phải phân biệt với những triệu chứng của thoái hòá cột sống cổ, các khối u của tủy cổ hoặc của các rễ thần kinh, viêm quanh khớp vai và những hội chứng cổ cánh tay khác.

Hội chứng đau cổ cánh tay

Nguyên nhân đau cổ gồm căng cứng hoặc vẹo cổ cấp hoặc mạn tính, thoát vị nhân nhày đĩa đệm, thoái khớp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp dạng thấp

Bệnh calci hóa sụn và giả gút

Không giống bệnh gút, bệnh nhân bị bệnh giả gút thường có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường, và kém đáp ứng với điều trị bằng colchicin

Bệnh gút

Gút là một bệnh rối loạn chuyển hóa, thường có tính chất gia đình, do sự thay đổi bất thường lượng urat trong cơ thể và đặc trưng đầu tiên của bệnh là những cơn viêm khớp cấp tái phát

Bệnh thoái khớp (hư khớp)

Bệnh được đặc trựng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ. Những yếu tố di truyền và cơ học ít nhiều có liên quan đến có chế bệnh sinh của bệnh.

Những nguyên tắc cơ bản trong điều trị bệnh khớp mạn tính

Mức độ nghỉ ngơi phụ thuộc vào sự có mặt và mức độ viêm. Những bệnh nhân đang có viêm khớp và những triệu chứng toàn thân nặng như trong bệnh viêm khớp dạng thấp

Đánh giá và chẩn đoán bệnh cơ xương khớp

Làm các thăm dò xét nghiệm để hoàn thiện việc đánh giá. Những xét nghiệm thông thường gồm tốc độ lắng máu, phản ứng tìm yếu tố dạng thấp, kháng thể kháng nhân