Những nguyên tắc cơ bản trong điều trị bệnh khớp mạn tính

2016-12-14 12:51 PM

Mức độ nghỉ ngơi phụ thuộc vào sự có mặt và mức độ viêm. Những bệnh nhân đang có viêm khớp và những triệu chứng toàn thân nặng như trong bệnh viêm khớp dạng thấp

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Giáo dục bệnh nhân và các yếu tố tinh thần

Những bệnh khớp mạn tính như viêm khớp dạng thấp, dễ làm cho người bệnh tin rằng họ phải điều trị trong suốt cuộc đời của họ. Cảm giác không có lợi này có thể làm cho người bệnh trở nên tàn phế hơn chính căn bệnh gây ra. Thầy thuốc nên giải thích cho bệnh nhân về căn bệnh của họ, mô tả tính chất không ổn định của bệnh và nên nói với họ là cần phải quyết định điều trị như thế nào. Nhiều bệnh nhân vẫn cho rằng điều trị có nghĩa là một đợt dùng thuốc ngắn và sau đó là một thời kì hồi phục. Cũng cần giải thích với người bệnh về khái niệm khống chế căn bệnh mạn tính và việc điều trị theo kinh nghiệm bằng các loại thuốc khác nhau để họ tin vào thầy thuốc. Ngoài ra cũng nên cho người bệnh biết tiên lượng của bệnh, điều đó giúp họ giảm bớt lo lắng vì nhiều bệnh nhân thường bi quan quá mức về nhưng gì xảy ra với họ. Giáo dục gia đình và những người thân là một nguồn động viên về tinh thần, giúp người bệnh về lâu dài cảm thấy yên tâm hơn.

Các phương pháp vật lý và phục hồi chức năng

Các thày thuốc vật lý trị liệu và phục hồi chức năng biết được những phương pháp điều trị bệnh khớp không dùng thuốc (sẽ mô tả dưới đây) và có thể hướng dẫn người bệnh. Hầu hết bệnh nhân rất đều muốn có thông tin thực tế về cách điều trị này. Những điều trị viên có thể xây dựng một chương trình giúp người bệnh áp dụng ngay tại nhà với sự theo dõi định kì.

Nghỉ ngơi hoàn toàn

Mức độ nghỉ ngơi phụ thuộc vào sự có mặt và mức độ viêm. Những bệnh nhân đang có viêm khớp và những triệu chứng toàn thân nặng như trong bệnh viêm khớp dạng thấp, luput ban đỏ hệ thống hoặc viêm khớp vảy nến, nên nghỉ ngơi tại giường hoan toàn. Với những bệnh nhân mà tình trạng viêm nhẹ, nghỉ ngơi 2 giờ mỗi ngày là đủ. Nhìn chung việc nghỉ ngơi nên tiếp tục ít nhất 2 tuần sau khi các triệu chứng được cải thiện, sau đó chương trình có thể được tự do hóa. Song, việc tăng cường các hoạt động thể lực cũng phải tăng dần và với sự trợ giúp thích hợp đối với những khớp phải chịu tải đang bị bệnh.

Bất động khớp

Bất động khớp có thể góp phần làm giảm tình trạng viêm. Có thể cho bệnh nhân nằm sấp khoảng 15 phút, vài lần mỗi ngày để làm thư giãn và duỗi các cơ quanh khớp háng và khớp gối, tránh sự co cứng khớp ở tư thế gấp. Ngồi lâu ở tư thế gấp chân là một hình thức bất động khớp không hợp lí. Một số dụng cụ hố trợ có thể giúp cho khớp nghỉ ngơi, giảm co cứng, giảm sự biến dạng khớp, giảm sự co cứng của phần mềm và bảo vệ các dây chằng. Những dụng cụ này phải có thể tháo ra được, cho phép cử động và tập luyện hàng ngày những chi bị bệnh. Khi bệnh nhân bắt đầu đi lại được nên chú ý tránh cho những khớp bị bệnh phải chịu tải nặng dễ làm tăng sự biến dạng ở tư thể gấp, bằng cách dùng nạng hay gậy.

Tập luyện

Tập luyện nhằm duy trì chức nâng vận động của khớp, tăng cường sự dẻo dai và sức mạnh của cơ. Trước hết với những bệnh khớp có viêm, vận động thụ động và tập luyện đẳng trường là thích hợp nhất (chẳng hạn giơ cao chân duỗi thẳng). Ngâm mình trong nước cho phép luyện tập đẳng trương và đẳng trường, ít gây kính thích cho những hình thức tập luyện chủ động. Tuy lý tưởng đối với những bệnh nhân khớp song do chi phí còn cao nên việc áp dụng phương pháp này còn hạn chế. Khi bệnh đã thuyên giảm và đã có thể tập luyện, cần có những hình thức tập luyện thích hợp để ngăn chặn sự tiến triển của bệnh. Bệnh nhân cần phải tuân thủ một nguyên tắc là tránh bất kì mọi hình thức tập luyện nào gây tăng đau đớn sau 1 giờ tập luyện.

Nhiệt và lạnh

Những phương pháp này trước hết có tác dụng giãn cơ và giảm đau. Sử dụng nguồn nhiệt chiếu sáng hoặc nước nóng nói chung là thích hợp nhất. Những bệnh nhân đi lại được sẽ thấy rằng những bồn tắm nước ấm rất thích hợp. Đắp parafin vào bàn tay là một phương pháp rẻ tiền và giúp cho bệnh nhân giảm hiện tượng cứng khớp buổi sáng. Khi tiếp xúc với nhiệt, việc tập luyện có thể tiến hành tốt hơn. Một số bệnh nhân thấy đỡ đau khớp khi áp lạnh tại chỗ.

Những thiết bị hỗ trợ

Bệnh nhân bị viêm khóp gối hoặc khớp háng nặng có thể thấy dễ chịu hơn khi có một chỗ đi vệ sinh được kê cao, dụng cụ có chỗ vịn tay, hoặc có một cái gậy để chống. Bệnh nhân cầm gậy trong tay phía bên kia của khớp háng hoặc khớp gối bị bệnh, do đó tránh phải tỳ người vào chân bị bệnh. Với những bệnh nhân nặng hơn có thể dùng nạng hoặc có người dìu.

Dùng nẹp

Sử dụng nẹp có thể giúp cho việc bất động khớp, giảm đau, ngăn chặn sự co cứng chi, nhưng cần phải tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:

Ở chi trên: dùng nẹp bàn tay hoặc cổ tay hoặc cả hai vào ban đêm để giữ chi ở tư thể cơ năng tốt nhất. Khớp khủyu và vai thường bị mất khả năng vận động rất nhanh cho nên các phương pháp điều trị tại chỗ khác hoặc tiêm corticosteroid thường thích hợp hơn dùng nẹp.

Ở chi dưới: Cách bất động tốt nhất cho khớp háng là tư thế cho nằm sấp vài giờ mỗi ngày trên giường cứng. Với khớp gối việc nằm sấp có thể cũng là đủ, sóng đôi khi vẫn cần phải nẹp để duỗi ở tối đa. Nẹp khớp cổ chân cần có hình gấp góc đơn giản.

Nẹp nên duy trì trong một thời gian cần thiết ngắn nhất và nên làm bằng những vật liệu nhẹ và có thể tháo ra dễ dàng để tập cử động khớp một hai lần mỗi ngày để tránh cứng khớp.

Cần sử dụng các nẹp hợp lí, chẳng hạn nẹp chống co gấp đối với khớp gối, với sự hướng dẫn của những thày thuốc đã quen với công việc này.

Cần nhớ rằng việc dùng nẹp sẽ ít cần thiết nếu tránh được tình trạng ngồi quá lâu hoặc kê đệm dưới khớp gối.

Giảm cân nặng

Với những bệnh nhân quá béo, cần cố gắng giảm tới cân nặng lý tưởng để làm giảm áp lực và sự tổn thương trên những khớp viêm ở chi dưới.

Bài viết cùng chuyên mục

Những chấn thương do chạy nhảy

Những hậu quả không tốt này có thể ngăn chặn bằng những biện pháp đề phòng như áp dụng những bài tập kéo duỗi, đi giầy hợp lí, tránh chạy quá sức và lưu ý kịp thời những sang chấn

Viêm nút đa động mạch

Viêm đa động mạch đặc trưng bởi tổn thương cục bộ hoặc từng đoạn của các mạch máu, đặc biệt là các động mạch nhỏ và trung bình, gây ra những biểu hiện lâm sàng khác nhau.

Bệnh hỗn hợp của mô liên kết

Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.

Viêm đa cơ - viêm da cơ

Viêm đa cơ là một bệnh hệ thống mà nguyên nhân chưá rõ, biểu hiện chủ yếu của bệnh là yếu cơ, Đây là một bệnh cơ nguyên phát thường gặp nhất ở người lớn.

Hội chứng đường hầm cổ tay

Hội chứng này cần phải phân biệt với các hội chứng đau cổ cánh tay khác, hội chứng chèn ép thần kinh giữa vùng cẳng hoặc cánh tay, bệnh viêm một dây thần kinh.

Luput ban đỏ hệ thống

Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.

Viêm khớp vảy nến

Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.

Loạn dưỡng giao cảm phản xạ

Tiên lượng phụ thuộc một phần vào giai đoạn bệnh, những tổn thương đã xuất hiện và phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh lý nội tạng phôi hợp. Điều trị sớm, khả năng hồi phục sẽ tôt hơn.

Đánh giá và chẩn đoán bệnh cơ xương khớp

Làm các thăm dò xét nghiệm để hoàn thiện việc đánh giá. Những xét nghiệm thông thường gồm tốc độ lắng máu, phản ứng tìm yếu tố dạng thấp, kháng thể kháng nhân

Bệnh calci hóa sụn và giả gút

Không giống bệnh gút, bệnh nhân bị bệnh giả gút thường có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường, và kém đáp ứng với điều trị bằng colchicin

Viêm gân lắng đọng Calci vùng vai cánh tay

Viêm gán lắng đọng calci cần phải phân biệt với những hội chứng đau cổ cánh tay khác, viêm khớp mủ, thoái khớp, gút, các khối u đỉnh phổi Pancoast và đứt bao xoay.

Các khối u và những tổn thương giống khối u của xương

Các khối u tiên phát của xương tương đối hiếm gặp so với các khối u thứ phát hoặc di căn, Tuy nhiên chúng có ý nghĩa lớn trên lâm sàng bởi vì có nhiều khả năng ung thư.

Những biểu hiện khớp trong nhiễm HIV

Viêm gân Achille hoặc viêm quanh khớp gối, như trong hội chứng Reiter cổ điển, là những dấu hiệu thường nổi bật và rất đặc trưng.

Viêm khớp do lậu

Trong hầu hết các trường hợp, nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp do lậu nên nhập viện để khẳng định chẩn đoán, để loại trừ viêm nội tâm mạc và bắt đầu điều trị.

Bệnh viêm cột sống dính khớp

Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng có xu hướng lan dần lên phía đầu, vận động cột sống trở nên hạn chế, mất đường cong sinh lý bình thường của cột sống thắt lưng.

Bệnh Cryoglobulin huyết

Những bất thường trong xét nghiệm chức năng gan, đau bụng, bệnh tim và bệnh phổi cũng có thể xuất hiện. Chẩn đoán dựa trên bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt và phản ứng huyết thanh dương tính với cryoglobulin.

Hoại tử xương vô khuẩn

Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.

Viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân có viêm mạn tính màng hoạt dịch của nhiều khâp, mà nguyên nhân chưa rõ, Bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú.

Hội chứng Reiter

Hội chứng Reiter cần phải phân biệt với viêm khớp do lậu, đặc biệt khi viêm kết mạc nhẹ hoặc bị bỏ qua, Viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp tiên phát.

Xơ cứng bì toàn thể

Xơ cứng bì toàn thể là một bệnh mạn tính đặc trưng bởi xơ cứng lan toả của da và tổn thương các nội tạng, Nguyên nhân của bệnh chưa rõ, song có vai trò của yếu tố tự miễn dịch.

Viêm khớp do virus

Viêm đa khớp có thể phối hợp với viêm gan B và điển hình thường xuất hiện trước khi bắt đầu có vàng da, nó cũng có thể xuất hiện trong viêm gan không vàng da.

Viêm lồi cầu

Dùng một băng chun quân phía trên cẳng tay có thể làm cho bệnh nhân dễ chịu hơn mỗi khi bệnh nhân phải mang xách nặng.

Bệnh thiểu sản xương: bệnh giòn xương

Dạng thứ hai là thiểu sản xương muộn, trong đó gẫy xương và biến dạng xương xuất hiện sau khi đẻ. Xương dòn, dễ gãy là một tiêu chuẩn rõ ràng nhất cho chẩn đoán.

Bệnh thoái khớp (hư khớp)

Bệnh được đặc trựng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ. Những yếu tố di truyền và cơ học ít nhiều có liên quan đến có chế bệnh sinh của bệnh.

Cốt tủy viêm cấp do vi khuẩn sinh mủ

Trong số những bệnh nhân bị các bệnh huyết sắc tố, cốt tủy viêm do vi khuẩn thương hàn thường gặp gấp 10 lần so với những vi khuẩn sinh mủ khác.