- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp
- Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp không do lậu
Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp không do lậu
Việc sử dụng nội soi ngày càng rộng rãi và những phẫu thuật thay khớp nhân tạo đã làm cho tỉ lệ viêm khớp nhiễm khuẩn tăng lên.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Viêm khớp cấp khởi phát đột ngột, thường ở một khớp, hầu hết ở các khớp lớn chịu tải và khớp cổ tay.
Tổn thương khớp từ trước và nghiện chích thuốc tĩnh mạch là những yếu tố nguy cơ thường gặp.
Thường có ổ nhiễm khuẩn tiên phát ở một nơi khác trong cơ thể.
Tràn dịch khớp thường nặng, với số lượng bạch cầu thường trên 100.000/µL.
Nhận định chung
Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp không do lậu xuất hiện trên một cơ thể không bình thường. Yếu tố nguy cơ chủ yếu là nhiễm khuẩn huyết dai dẳng (ví dụ nghiện chích thuốc tĩnh mạch, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn) và khớp đã bị tổn thương sẵn từ trước (chẳng hạn viêm khớp dạng thấp). Tụ cầu vàng là nguyên nhân thông thường nhất của viêm khớp nhiễm khuẩn không do lậu, sau đó là liên cầu nhóm A và nhóm B. Viêm khớp do nhiễm khuẩn Gram âm, tuy hiếm, song ngày càng gặp nhiều hơn, đặc biệt ở những người nghiện chích và những người suy giảm miễn dịch. E coli và trực khuẩn mủ xanh là những vi khuẩn Gram âm thường thấy ở người lớn.
Việc sử dụng nội soi ngày càng rộng rãi và những phẫu thuật thay khớp nhân tạo đã làm cho tỉ lệ viêm khớp nhiễm khuẩn tăng lên. Trong trường hợp phẫu thuật thay khớp nhân tạo, nhiễm khuẩn thường do Staphylococcus epidermidis. Những thay đổi về mặt giải phẫu bệnh gồm biểu hiện viêm ở các mức độ khác nhau, viêm màng hoạt dịch, tràn dịch, tạo ổ áp xe trong màng hoạt dịch hoặc dưới sụn. Điều trị không đầy đủ gâỳ ra phá hủy khớp.
Lâm sàng
Khởi phát thường đột ngột, sưng nóng, đau cấp tính của một khớp - thường gặp nhất của khớp gối. Những khớp khác cũng hay gặp là khớp háng, cổ tay, vai và khớp cổ chân. Những vị trí ít gặp như khớp ức đòn, khớp cùng chậu có thể bị nhiễm khuẩn ở những người nghiện chích thuốc tĩnh mạch. Sốt cao, ret run là phổ biến nhưng có thể không có trong 20% bệnh nhân. Nhiễm khuẩn khớp háng ít khi thẩy sưng rõ, song bệnh nhân thường có đau nhiều vùng bẹn khi đi lại.
Xét nghiệm
Cấy máu dương tính trong khoảng 50% trường hợp. Số lượng bạch cầu trong dịch khớp có thể trên 100.000/µL với trên 90% là bạch cầu đa nhân. Glucose trong dịch khớp thường giảm. Nhuộm Gram dịch khớp cho kết quả ( + ) trong 75% bệnh nhân nhiễm khuẩn do tụ cầu và 50% bệnh nhân nhiễm khuẩn Gram âm.
Thăm dò hình ảnh
X quang thường bình thường khi mới bị bệnh, nhưng hiện tượng mất chất khoáng xương có thể thấy trong vòng vài ngày sau khởi phát. Mòn xương và hẹp khe khớp, sau đó là cốt tủy viêm và viêm màng xương có thể xuất hiện trong vòng 2 tuần.
Chẩn đoán phân biệt
Tình trạng nhiễm khuẩn với sốt cao, rét run, phản ứng toàn thân cấp tính, xét nghiệm dịch khớp, có ổ nhiễm khuẩn ở một nơi khác trong cơ thể và nhậy cảm với kháng sinh là những yếu tố để chẩn đoán viêm khớp nhiễm khuẩn. Loại trừ gút và giả gút khi không tìm thấy các tinh thể trong dịch khớp. Thấp khớp cấp và viêm khớp dạng thấp thường có viêm nhiều khớp; bệnh Still có thể giống với viêm khớp nhiễm khuẩn song vắng mặt những bằng chứng xét nghiệm của nhiễm khuẩn. Viêm khớp mủ có thể bội nhiễm ở bệnh nhân có một bệnh khớp khác, đáng lưu ý là viêm khớp dạng thấp và cần phải loại trừ (bằng xét nghiệm dịch khớp) trong bất kì đợt tái phát cấp tính rõ ràng nào của bệnh khớp tiên phát, đặc biệt khi có tiền sử chọc khớp và biểu hiện viêm của khớp đó mạnh mẽ hơn so với những khớp khác.
Điều trị
Cần cho ngay kháng sinh đường toàn thân đối với bất kì một trường hợp viêm khớp nhiễm khuẩn nào, dựa trên sự phán đoán lâm sàng tác nhân gây bệnh và dựa vào kết quả soi, nuôi cấy dịch khớp, máu, nước tiểu hoặc những vị trí nhiễm khuẩn đặc hiệủ khác. Nếu không xác định được loại vi khuẩn gây bệnh trên lâm sàng, nên bất đầu điều trị bằng các thuốc kháng sinh diệt khuẩn có hiệu quả với tụ cầu, phế cầu và trực khuẩn Gram âm.
Chọc khớp nhiều lần (thậm chí hàng ngày) được chỉ định khi tràn dịch tái phát nhanh và gây ra triệu chứng. Dẫn lưu ngoại khoa sớm trong trường hợp nhiễm khuẩn khớp háng bởi vì khớp này khó có thể chọc nhiều lần. Với hầu hết các khớp khác, dẫn lưu ngoại khoa chỉ tiến hành khi điều trị nội khoa trong vòng 2 - 3 ngày không làm hết hoặc giảm sốt, tràn dịch vẫn nhiều, số lượng bạch cầu không giảm và nuôi cấy vẫn dương tính. Có thể giảm đau bằng chườm nóng tại chỗ, bất động khớp bằng nẹp hoặc kéo liên tục. Nghỉ ngơi, bất động và kê cao chân nên áp dụng ngay từ đầu. Những bài tập vận động chủ động sớm trong giới hạn cho phép sẽ giúp cho việc hồi phục nhanh hơn.
Tiên lượng
Khi được điều trị kháng sinh kịp thời và không có một bệnh lý khớp nặng từ trước, sự hồi phục về chức nâng vận động thường tốt. Tỉ lệ tử vong trong viêm khớp nhiễm khuẩn từ 5 - 10%, chủ yếu do biến chứng nhiễm khuẩn hô hấp. Tỉ lệ tử vong tới 30% ở bệnh nhân viềm nhiều khớp nhiễm khuẩn. Phá hủy khớp và dính khớp thường xuất hiện nếu điều trị chậm hoặc không đầy đủ.
Bài viết cùng chuyên mục
Hội chứng Sjogren
Viêm kết giác mạc khô do giảm tiết nước mắt, gây nên bởi sự thâm nhiễm tế bào lympho và tương bào vào các tuyến lệ. Triệu chứng gồm nóng rát, ngứa, tiết rỉ mắt và không chảy nước mắt khi khóc.
Hội chứng Reiter
Hội chứng Reiter cần phải phân biệt với viêm khớp do lậu, đặc biệt khi viêm kết mạc nhẹ hoặc bị bỏ qua, Viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp tiên phát.
Luput ban đỏ hệ thống
Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.
Ban xuất huyết Henoch-Schonlein
Đây là một dạng phát ban mà nguyên nhân chưa rõ; đặc trưng cơ bản về mặt giải phẫu bệnh là viêm mạch máu nhỏ. Mặc dù bệnh thường gặp ở trẻ em song người lớn cũng có thể bị.
Viêm lồi cầu
Dùng một băng chun quân phía trên cẳng tay có thể làm cho bệnh nhân dễ chịu hơn mỗi khi bệnh nhân phải mang xách nặng.
Hội chứng Behort
Triệu chứng lâm sàng gồm liệt dây thần kinh sọ, co giật, viêm não, rối loạn tâm thần và tổn thương tủy sống. Thường có tăng bạch cầu và tăng tốc độ lắng máu.
Thấp khớp hay tái phát
Thấp khớp hay tái phát là một bệnh không rõ nguyên nhân đặc trưng bởi những đợt viêm cấp không tái phát, Sưng đau khớp ngoại vi và nổi hạt dưới da tạm thời có thể xuất hiện.
Bệnh Cryoglobulin huyết
Những bất thường trong xét nghiệm chức năng gan, đau bụng, bệnh tim và bệnh phổi cũng có thể xuất hiện. Chẩn đoán dựa trên bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt và phản ứng huyết thanh dương tính với cryoglobulin.
Bệnh hỗn hợp của mô liên kết
Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.
Lao xương khớp
Hầu hết những nhiễm khuẩn do lao ở Mỹ do vi khuẩn lao người Mycobacterium tuberciilosis gây ra, Nhiễm khuẩn hệ thống xương khớp do sự lan tràn trên đường máu.
Những nguyên tắc cơ bản trong điều trị bệnh khớp mạn tính
Mức độ nghỉ ngơi phụ thuộc vào sự có mặt và mức độ viêm. Những bệnh nhân đang có viêm khớp và những triệu chứng toàn thân nặng như trong bệnh viêm khớp dạng thấp
Viêm quanh khớp vai
Khởi phát của đau, tăng lên khi vận động khớp vai quá mức, có thể cấp tính hoặc từ từ. Đau có thể khó chịu nhất vào ban đêm và tăng lên khi nằm ngủ đè lên tay bị bệnh ở tư thế nằm nghiêng.
Viêm khớp vảy nến
Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.
Viêm khớp và các bệnh viêm ruột
Trên thực tế, viêm khớp ổn định thì ỉa chảy xuất hiện. Do vậy, bệnh Whiple nên được xem xét trong chẩn đoán phân biệt những trường hợp viêm khớp từng đợt không lý giải được.
Viêm khớp mãn tính thiếu niên
Các bất thường về sự phát triển của có thể và sự phát triển của bộ xương liên qiian đến sự tiến triển cấp tính của bệnh, có thể chỉ là tạm thời và thường hồi phục.
Hoại tử xương vô khuẩn
Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.
Bệnh co thắt Dupuytren
Co thắt Dupuytren có biểu hiện bằng sự dầy lên của bao cân gan tay dạng nốt hoặc giống như dây thừng ờ một hoặc hai bàn tay và thường ảnh hưởng tới các ngón thứ tư và thứ năm.
Viêm gân lắng đọng Calci vùng vai cánh tay
Viêm gán lắng đọng calci cần phải phân biệt với những hội chứng đau cổ cánh tay khác, viêm khớp mủ, thoái khớp, gút, các khối u đỉnh phổi Pancoast và đứt bao xoay.
Viêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân có viêm mạn tính màng hoạt dịch của nhiều khâp, mà nguyên nhân chưa rõ, Bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú.
Bệnh u hạt Wegener
Mặc dù có thể có dạng u hạt Wegener giới hạn mà trong đó không có tổn thương thận, song thông thường sẽ xuất hiện bệnh thận tiến triển nặng và gây suy thận nhanh chóng.
Viêm bao thanh dịch
Viêm bao thanh dịch có thể do nhiễm khuẩn. Hai vị trí thường bị là mỏm khủyu và trước xương bánh chè. Viêm bao thanh dịch cấp ở hai vị trí này cần chọc dò để loại trừ nguyên nhân nhiễm khuẩn.
Những chấn thương do chạy nhảy
Những hậu quả không tốt này có thể ngăn chặn bằng những biện pháp đề phòng như áp dụng những bài tập kéo duỗi, đi giầy hợp lí, tránh chạy quá sức và lưu ý kịp thời những sang chấn
Đánh giá và chẩn đoán bệnh cơ xương khớp
Làm các thăm dò xét nghiệm để hoàn thiện việc đánh giá. Những xét nghiệm thông thường gồm tốc độ lắng máu, phản ứng tìm yếu tố dạng thấp, kháng thể kháng nhân
Hội chứng đường hầm cổ tay
Hội chứng này cần phải phân biệt với các hội chứng đau cổ cánh tay khác, hội chứng chèn ép thần kinh giữa vùng cẳng hoặc cánh tay, bệnh viêm một dây thần kinh.
Viêm nút đa động mạch
Viêm đa động mạch đặc trưng bởi tổn thương cục bộ hoặc từng đoạn của các mạch máu, đặc biệt là các động mạch nhỏ và trung bình, gây ra những biểu hiện lâm sàng khác nhau.