Viêm xoang cấp

2016-09-04 10:01 AM

Viêm xoang xảy ra khi không dẫn lưu được mủ ứ đọng trong xoang. Các bệnh làm phù nề niêm mạc như viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng là những nguyên nhân thường gặp.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung

Viêm xoang cấp không phổ biến như viêm mũi do virus vì viêm xoang thường đi sau nhiễm khuẩn hô hấp cấp và người ta thường dùng thuật ngữ viêm xoang khi viêm mũi, chúng ta có thể thấy đôi khi thầy thuốc cũng như bệnh nhân bị nhầm lẫn giữa hai bệnh này. Ngoài các triệu chứng của viêm mũi, chẩn đoán viêm xoang yêu cầu các dấu hiệu và triệu chứng cho thấy bệnh lý ở một hay nhiều xoang như đau và căng nề mặt ngoài xoang tổn thương.

Viêm xoang xảy ra khi không dẫn lưu được mủ ứ đọng trong xoang. Các bệnh làm phù nề niêm mạc như viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng là những nguyên nhân thường gặp. Phù nề niêm mạc gây tắc nghẽn các lỗ dẫn lưu của xoang, hậu quả là ứ đọng các chất tiết nhầy trong xoang tạo điều kiện cho nhiễm khuẩn thứ phát. Vi khuẩn gây bệnh trong xoang giống như trong viêm taí giữa, đó là tụ cầu S. pneumoniae, liên cầu khuẩn. H.influenza và ít gặp hơn là tụ càu vàng (S.aureus) và M. catarrhalis.

Triệu chứng và dấu hiệu

Vì xoang hàm là xoang lớn nhất và lỗ dẫn lưu của nó vào mũi là chủ yếu do đó dễ bị tác động nhất, đây là xoang hay bị tổn thương nhất.

Đau và cảm giác căng vùng má là triệu chứng thường gặp, đau có thể lan tới răng cửa và răng nanh hàm trên qua nhánh của dây tam thoa mà nhánh này đi qua sàn của xoang. Không phải là hiếm gặp viêm xoang hàm do răng. Do đó nên khám những dấu hiệu của áp xe răng hàm trên. Chảy mũi không màu và đáp ứng kém với thuốc co mạch có thể nghĩ tới viêm xoang. Những nguyên nhân khác có thể gây đau vùng mặt như đau dây thần kinh V, viêm dây thần kinh thị giác cũng nên nghĩ tới.

Viêm xqạng sàng cấp ở người lớn thường bị kèm theo viêm xoang hàm, trong những trường hợp này triệu chứng của viêm xoang hàm thường lấn át. Nhiễm khuẩn xoang sàng biểu hiện bằng đau và căng ở cao vùng thành bên của mũi và có thể lan ra ổ mắt. Viêm tấy quanh ổ mắt có thể gặp.

Viêm xoang bướm thường gặp trong viêm đa xoang. Bệnh nhân có thể kêu đau. đầu ở vùng giữa đầu và thường chỉ vào vùng đỉnh. Liệt dây VI có thể xảy ra vì dây này đi ngay ở thành bên của xoang.

Viêm xoang trán cấp thường gây nên đau và cảm giác căng ở vùng trán, những triệu chứng này dễ gây ra khi sờ vào trần ổ mắt ngay dưới đầu trong của cung lông mày; sờ nắn ở vùng này chính xác hơn là gõ vào vùng trên ổ mát hoặc vùng trán.

X quang

Mặc dầu chẩn đoán viêm xoang có thể chỉ dựa vào lâm sàng, nhưng X quang cho phép chẩn đoán rõ ràng hơn và đây là một phương tiện để phát hiện nguồn gốc của nhiễm khuẩn. Soi bóng mờ có thể giúp cho chẩn đoán, nhưng rất thay đổi vì tổ chức phần mềm dầy và kỹ thuật làm cho sự thể hiện khó khăn. Các tác giả không thấy phương pháp này có tác dụng đặc biệt nào trong thực tế.

Tư thế viêm xoang chuẩn và xoang có thể nhìn rõ nhất trong các phim là Caldwell (xoang trán), Waters (xoang hàm), phim nghiêng (xoang bướm) và tư thế cằm đỉnh (xoang sàng). Mờ mà không có phá hủy xương là hình ảnh điển hình của viêm xoang, mức nước - hơi có thể nhìn thấy khi phim được chụp với bệnh nhân nằm nghiêng rõ hơn là nằm ngửa. Xoang trán có thể nhìn thấy bình thường mặc dù trên lâm sàng có biểu hiện rõ của viêm xoang.

Chụp CT scan tư thế vòng giới hạn có ở nhiều trung tâm y học đã thay thể phim xoang trong việc đánh giá viêm xoang. Chúng đắt hơn nhiều so với phim thông thường và nhạy cảm hơn nhiều với cả thay đổi của viêm và sự phá hủy xương. (điều này có thể cho phép nghi ngờ có khối u).

Trong viêm xoang tái phát, CT scan có thể cho thấy sự tắc nghẽn về mặt giải phẫu của phức hợp lỗ ngách và vì thế cho thấy vai trò của phẫu thuật nội soi. Tuy nhiên nếu nghi ngờ ác tính (chẳng hạn có bệnh lý dây thần kinh sọ một bên hoặc khối u trong mũi) thì nên chụp MRI cùng với gadolinium. MRI sẽ phân biệt khối u với viêm và lớp nhầy đặc rõ hơn nhiều so với CT scan

Điều trị

Những bệnh nhân viêm xoang không có biến chứng với những triệu chứng thông thường thì việc điều trị ngoại trú thường có kết quả. Uống thuốc chống xung huyết (như pseudoephedrin 60 - 120 mg uống 3 - 4 lần/ngày), thuốc co mạch dạng xịt (oxymetazolin 0,05%, 1 hoặc 2 lần xịt mỗi mũi từ 6 - 8 giờ 1 lần trong 3 ngày, Xylometazolin 0,05 - 0,1%, 1 hoặc 2 lần xịt mỗi mũi, 6 - 8 giờ 1 lần trong 3 ngày) và nên uống kháng sinh.

Nếu thấy mủ chảy ra ở mũi thì nên nuôi cấy vi khuẩn. Chọc xoang hàm và hút mủ lấy bệnh phẩm để nuôi cấy; nội soi xoang để rửa xoang có thể cho hoàn chỉnh mục đích. Điều này đặc biệt quan trọng khi có lý do nghi ngờ tác nhân gây bệnh không phải là điển hình như trong viêm xoang ở các khoa điều trị tích cực; Mặc dầu X quang là thông dụng nhưng viêm xoang trong khoa điều trị tích cực (ICU) hiếm khi là nguyên nhân duy nhất gây nên sốt. Điều thú vị là dòng vi khuẩn gặp trong viêm xoang ở bệnh nhân AIDS cũng như ở các bệnh nhân hay gặp khác, nhưng khi chọc hút làm tế bào học có thể đưa tới chẩn đoán là u lympho, việc nhầm lẫn này không phải là hiếm gặp ở những viêm xoang trên bệnh AIDS.

Amoxicilin (250 mg uống 3 lần/ngày) thấm vào xoang tốt hơn so với ampicillin vốn là thuốc được lựa chọn đầu tiên. Phối hợp Trimethoprim và Sulfamethoxazol (4 mg/kg TMP và 20 mg/kg SMZ 2 lần/ngày, có dạng viên đóng sẵn 80 hoặc 160 TMP và 160 hoặc 800 SMZ). Cephalexin (250 - 500mg uống hằng ngày). Cefuroxim (250 mg uống 2 lần/ngày) và cefaclor (250 mg uống 3 lần/ngày). Ceílxim (400 mg uống hàng ngày) được dùng nhừ là thuốc cơ bản mặc dừ nó không có tảc dụng với vi khuẩn tạo nên kháng β-lactamase. Kháng sinh điều trị viêm xoang nên dùng liên tục trong 2 tuần, đôi khi phải điều trị kéo dài hơn để đề phòng tái phát.

Sau khi điều trị đủ đợt kháng sinh bằng đường uống nhưng bị thất bại, những bệnh nhân viêm xoang này cần phải nằm viện, điều trị kháng sinh đường tĩnh mạnh, có khi phải phẫu thuật dẫn lưu. Bệnh nhân viêm xoang trán không đáp ứng với điều trị ngoại trú cần được theo dõi tích cực, vl thành sau xoang trán là màng não và những nhiễm trùng không được điều trị đầy đủ có thể lan vào sọ não. Nếu kháng sinh truyền tĩnh mạch không làm giảm triệu chứng, việc chọc xoang trán là cần thiết để dẫn lưu và rửa.

Biến chứng

Biến chứng tại chỗ của viêm xoang gồm cốt tủy viêm và u nhày. U nhày là hậu quả tắc nghẽn kéo dài của các ống dẫn, thường gặp hơn ở những tế bào sàng ở góc bên ổ mắt, và xoang trán có thể bị nhiễm khuẩn thứ phát. Biểu hiện trên Xquang là sự giãn rộng của xoang một cách mềm mại và được lấp đầy bằng tổ chức mềm có độ cản quang đồng đều. Điều trị là phẫu thuật, mục đích dẫn lưu vào mũi hoặc lấy bỏ toàn bộ và lấp xoang bằng tổ chức mỡ.

Cốt tủy viêm cần điều trị bằng kháng sinh kéo dài và lấy bỏ tố chức xương hoại tử. Xoang trán hay bị viêm xương nhất, biểu hiện xương bị viêm qua da vùng trán sựng nề. Saụ điều trị có thể cần đặt ra phẫu thuật thẩm mỹ thì hai.

Biến chứng nội sọ của viêm xoang xảy'ra do sự lan truyền theo đường máu, như viêm xoang tĩnh mạch hang và viêm màng não hoặc theo đường lan truyền trực tiếp như áp xe ngoài màng cứng, áp xe tổ chức nhu mô não. Thật may là những biến chứng này ngày nay ít gặp.

Viêm tắc xoang hang có dấu hiệu báo trước là đau mắt, sụp mi và giảm thị lực; áp xe ngoài màng cứng thùy trán thường là tiến triển âm thầm. Chụp CT scan có thể phát hiện được các trường hợp không điển hình hoặc những viêm xoang có biến chứng. Phải luôn nhớ rằng cần phải phân biệt ung thư xoang với viêm xoang. Khi có biểu hiện phá hủy xương trên X quang, tổn thương dây thần kinh sọ (đặc biệt nhánh hai của dây V), đau kéo dài, chảy máu mũi, hoặc biểu hiện lâm sàng kéo dài làm tăng thên nghi ngờ bị ung thư xoang.

Bài viết cùng chuyên mục

Biểu hiện của nhiễm HIV tai mũi họng

Sự tăng lên của u carcinom tế bào vẩy cũng thấy ở nhóm người đồng tính luyến ái, có lẽ cũng liên quan đến nhiễm HIV.

Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ

Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau.

Dị vật khí phế quản, thực quản

Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.

Mở khí quản và mở màng nhẫn giáp

Chăm sóc sau mở khí quản là cần làm ẩm không khí đề phòng tạọ vảy bít tắc ống đặt khí quản, ống trong phải được rửa sạch vài lần trong ngày.

Liệt dây thanh âm

Liệt dây thanh âm hai bên thường gây nên thở rít. Nếu khởi phát đột ngột, thở rít cả thì thở ra và hít vào, gây nên hẹp đường thở thì phải mở giáp móng cấp cứu.

U thanh quản

Việc điều trị đòi hỏi thay đổi thói quen về nói và được coi là phương pháp điều trị giọng nói. Với các hạt không hồi phục có thể đòi hỏi phải phẫu thuật lấy bỏ.

Các rối loạn thanh quản hay gặp

Nếu người lớn bị viêm thanh thiệt được phát hiện sớm có thể tránh được đặt ống nội khí quản, trong những trường hợp này theo dõi nồng độ bão hòa oxy huyết cầu tố bằng máy đo oxy.

Khàn tiếng và thở rít: bệnh lý thanh quản

Giọng thô ráp khi sự xáo động tạo nên do sự bất thường của dây thanh âm như viêm thanh quản hoặc khối u dây thanh âm.

U tuyến nước bọt

Hầu hết u của tuyến mang tai thể hiện như một khối không có triệu chứng ở phần ngoài của tuyến. Khối u có thể được bệnh nhân nhận thấy trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.

Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản

Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.

Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu

Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.

Cắt amidan

Hiện nay thấy rõ ràng là các bệnh nhân phẫu thuật cắt amidan ngoại trú thường an an toàn nếu theo dõi trong thời gian 6 giờ mà không có biến có gì.

Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào

Trong một vài trường hợp có đề nghị chấp nhận cắt amidan ngay cùng với dẫn lưu áp xe và tránh sự tái phát. Cả hai cách đều hợp lý và được ủng hộ trong y văn.

Viêm họng và viêm amidan

Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.

Tổn thương loét trong miệng

Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.

Viêm lưỡi và đau lưỡi

Đôi khi không tìm được nguyên nhân gây đau lưỡi. Bệnh quanh răng không phải là yếu tố gây đau lưỡi.

Bệnh nấm candida

Chẩn đoán thường không khó, những mảng trắng trong miệng gây đau trên nền xung huyết ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm nấm candida.

Bạch sản, hồng sản và ung thư miệng

Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân.

Bệnh u hạt Wegener, bệnh tăng tế bào lưới đa hình thái, bệnh sarcoid

Bệnh sarcoid cũng thường biểu hiện ở xoang và triệu chứng lâm sàng cũng tương tự. Sinh thiết thấy tổ chức hạt không hoại tử.

Các khối u lành tính trong mũi

Ù nhú đảo ngược là u lành tính thường xuất phát ở thành bên của mũi, biểu hiện bằng tắc mũi một bên, đôi khi chảy máu.

Chấn thương mũi

Nghĩ tới gãy xương khi sờ thấy lạo xạo hoặc thấy những mảnh xương di động. Chảy máu và đau thường gặp, cũng như những tụ máu ở phần mềm (dấu hiệu mắt đen).

Chảy máu mũi

Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.

Rối loạn chức năng khứu giác

Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.

Viêm mũi dị ứng

Dùng steroid trong viêm mũi có vai trò với dị ứng theo mùa, có polip mũi, thường làm giảm các chỉ định phẫu thuật.

Bệnh nấm mucor mũi nội sọ

Triệu chứng khởi đầu có thể giống như viêm xoang nhiễm khuẩn, mặc dầu triệu chứng đau mặt thường dữ dội hơn. Khám niêm mạc mũi cố vẻ biểu hiện màu đen, và hoại tử chính ở cuốn dưới.

Viêm tiền đình do mũi

Điều trị đầy đủ nhiễm khuẩn rất quan trọng để ngăn chặn nhiễm khuẩn ngược dòng qua đường tĩnh mạch vào xoang tĩnh mach hang và vào nôi sọ.

Viêm mũi do virus: cảm cúm

Thuốc xịt mũi như oxymetazolin hoặc phenylephrin có tác dụng nhanh chóng, không nên dùng các thuốc này kéo dài vì sẽ gây nên xung huyết trở lại mà thường là nặng hơn lúc đầu.

Các biểu hiện ở tai của bệnh AIDS

Các bệnh nhân AIDS thường phàn nàn có ảnh hưởng tới tai trong, nghe kém tiếp nhận thường gặp và một số trưồng hợp do nhiễm virus hệ thần kinh trung ương.

Các bệnh của hệ thống thính giác và tiền đình trung ương

Chóng mặt do tổn thương trung ương có xu hướng thành mạn tính và nhẹ hơn là chóng mặt gặp trong các bệnh mê nhĩ.

Chóng mặt do bệnh lý tai trong

Khám thực thể tối thiểu cho bệnh nhân chóng mặt gồm test Romberg, đánh giá dáng đi, quan sát có rung giật nhãn cầu hay không.

Ù tai: bệnh lý tai trong

Ù tai theo nhịp mạch phải được phân biệt với ù tai âm. Tiếng mạch đập thường do điếc dẫn truyền làm tăng sự truyền tiếng đập của động mạch cảnh rõ hơn.

Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong

Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu.

Đau tai: chẩn đoán và điều trị

Đau tai dữ dội mà không tương ứng với phát hiện thực thể có thể do virus zona ở tai, đặc biệt khi có những phổng nước ở ống tai hoặc hố thuyền.

Bệnh lý tai giữa

Các loại vi khuẩn hay gặp ở cả người lớn và trẻ em là Streptococcus Pneumonia, Hemophilus Influenzae và S. pyogenes.

Bệnh lý vòi nhĩ: vòi eustachi

Trường hợp mở vòi nhĩ quá mức hiếm gặp và khó điều trị. Bệnh nhân thường phàn nàn là cảm giác đầy trong tai và tự thính, bệnh nhân nghe thấy mình thở hoặc nói.

Bệnh lý ống tai

Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.

Bệnh lý vành tai

Cũng tương tự, những trường hợp bị viêm mô tế bào vành tai phải được điều trị ngay đề phòng sự tiến triển tới viêm màng sụn và các hậu quả biến dạng của nó.

Nghe kém: chẩn đoán và điều trị

Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.

Các khối u ác tính vùng mũi họng và xoang

Ung thư biểu mô lát hay gặp nhất ở vùng giải phẫu này, đặc biệt hay gặp ở vùng mũi họng, ở đây nó thường hay gây tắc vòi nhĩ và viêm tai tiết dịch.