Bệnh lý ống tai

2016-08-28 11:01 PM

Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nút ráy

Ráy tai là chất bảo vệ được phần ngoài của ống tai tiết ra. Phần lớn ống tai tự làm sạch. Cách làm sạch ống tai được khuyên làm là dùng đầu ngón tay trỏ bọc gạc lau cửa tai ngoài mà không móc vào trong ống tai. Phần lớn các trường hợp nút ráy được tạo ra ở những người làm sạch ống tai không đúng.

Nút ráy có thể được làm sạch bằng nhỏ các dung dịch (như oxy già 3%, carbamid peroxid 6,5%), móc ráy, hút, bơm rửa. Bơm rửa ống tai được thực hiện bằng nước có nhiệt độ bằng nhiệt độ của cơ thể để tránh các đáp ứng về nhiệt của cơ quan tiền đình. Dòng nước rửa nên hướng thẳng vào thành ống tai gần nút ráy. Việc bơm rửa chỉ được thực hiện khi màng nhĩ còn nguyên vẹn. Nên tránh sử dụng tia nước trong rửa răng để bơm rửa ráy tai vì có thể gây thủng màng nhĩ.

Sau khi bơm rửa phải làm khô ống tai để tránh nguy cơ bị viêm ống tai ngoài. Việc sử dụng kính hiển vi để làm sạch ống tai được chỉ định trong những trường hợp đặc biệt khi các phương pháp thông thường không lấy sạch được hoặc bệnh nhân có tiền sử viêm tai giữa mạn tính, hoặc có màng nhĩ thủng.

Dị vật

Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.

Dị vật là chất hữu cơ không nên bơm rửa bằng các dung dịch vì có thể làm trương các vật đó lên (hạt đậu, côn trùng...). Đối với những dị vật là côn trùng sống cách lấy tốt nhất là phải làm chúng chết trước khi lấy ra bằng dung dịch lidocain nhỏ đầy vào ống tai. Trên thực tế, tốt nhất là dùng kính hiển vi khi lấy dị vật ống tai.

Viêm tai ngoài

Viêm tai ngoài hay gặp ở những người bơi lội, thường có đau tai, kèm theo là ngứa và chảy mủ tai. Bệnh nhân thường có tiền sử gần đây có tiếp xúc với nước hoặc chấn thương cơ học vùng tai (gãi, ngoáy tai bằng bông). Viêm tai ngoài thường do vi khuẩn gram âm gây bệnh (trực khuẩn mủ xanh, Proteus...) hoặc nấm phát triển trong môi trường ẩm (như nấm Aspergillus).

Thăm khám thấy có xung huyết và phù nề của da ống tai ngoài, thường có xuất tiết mủ. Khi kéo vành tai thường gây đau vì lớp ngoài của màng nhĩ là da ống tai nên nó thường cũng bị xung huyết. Tuy nhiên khác với viêm tai giữa cấp, màng nhĩ di động binh thường khi dùng ống soi tai có bơm khí. Khi da ống tai rất phù nề có thể không quan sát được màng nhĩ, vấn đề điều trị cơ bản trong viêm ống tai ngoài là bảo vệ để không làm nước vào ống tai và tránh các tổn thương về cơ học khi lau rửa. Các dung dịch nhỏ tai là hỗn hợp có kháng sinh aminoglycosid và chống viêm corticosteroid trong dung dịch acid vận chuyển rất có hiệu quả trong điều trị (như Neomycin sulfat, polymyxin B sulfat, và hydrocortison). Những chất mủ ứ đọng trong ống tai có thể lấy đi nhẹ nhàng để thuốc có thể vào được.

Thuốc rỏ tai nên dùng nhiều (5 giọt hoặc hơn mỗi lần và 3 - 4 lần/ngày) vi rỏ quá nhiều không có hại gì nhưng nếu rỏ quá ít sẽ không vào được phần sâu của ống tai. Khi ống tai quá phù nề làm cho thuốc không vào được, nên đặt bấc để dẫn thuốc vào.

Ngứa tai

Ngứa ống tai ngoài, đặc biệt vành tai thường gặp. Ngứa tai có thể liên quan với viêm tai ngoài hoặc những bệnh lý về da liễu như viêm da tiết nhầy và vẩy nến; phần lớn các trường hợp bị bệnh do xây xước hoặc ngoáy tai quá mạnh. Để tái tạo lớp ráy bảo vệ, nên khuyên bệnh nhân tránh dùng xà phòng và nước hoặc que bông lau ống tai. Những bệnh nhân có da ống tai rất khô có thể dùng đầu khoáng chất để chống khô da và làm tăng độ ẩm. Khi có viêm tấy dùng corticosteroid tại chỗ có thể có tác dụng tốt (ví dụ triamcinolon 0,1%). Một điều rõ ràng là khi bị ngứa dai dẳng thì bệnh nhân phải gãi tai liên tục, do đó các móng tay của bệnh nhân phải được cắt ngắn và bệnh nhân phải đeo găng tay vải ban đêm để tránh gãi mạnh khi ngủ. Dùng kháng histamin uống có thể làm giảm triệu chứng ngứa (như dùng diphenhydramin 25 mg uống trước khi ngủ). Dùng cồn Isopropyl tại chỗ có thể làm giảm ngứa tai cho nhiều bệnh nhân.

Bệnh lý ác tính tai ngoài

Viêm tai ngoài kéo dài trên bệnh nhân đái tháo đường hoặc bệnh nhân ức chế miễn dịch có thể gậy ra cốt tủy viêm xương nền sọ, thường được gọi là bệnh lý ác tính tai ngoài.

Nguyên nhân thường gặp là do vi khuẩn mủ xanh, cốt tủy viêm bắt đầu từ sàn của ống tai ngoài và có thể lan tới đáy của hố não giữa, sàn dốc và thậm chí có thể tới đáy sọ bên đối diện. Bệnh nhân thường có chảy mủ tai thối kéo dài, có tổ chức hạt trong ống tai, đau tai trong sâu và liệt tiến triển liên quan đến các dây thần kinh sọ số VI, VII, IX, X, XI, hoặc XII. Chẩn đoán được xác định bằng hình ảnh tiêu xương trên CT. Scan và chụp quét cắt lớp.

Điều trị chủ yếu là nội khoa, cần dùng kháng sinh chống trực khuẩn mủ xanh kéo dài, thường trong nhiều tháng. Mặc dù thường dùng kháng sinh theo đường tĩnh mạch nhưng một số bệnh nhân có thể dùng Ciprofloxacin đường uống (500 - 1000 mg 2 lần/ngày) để tăng thêm tác dụng chống lại các chủng Pseudomonas. Để tránh thất bại trong điều trị, kháng, sinh nên dùng liên tục, thậm chí khi bệnh nhân hết triệu chứng và chỉ dừng lại khi trên cắt lớp gali thấy rõ hết quá trình viêm. Phẫu thuật lấy bỏ tổ chức xương nhiễm khuẩn được chỉ định trong những trường hợp điều trị nội khoa thất bại.

Lồi xương và ụ xương

Xương ống tai quá phát triển thường được phát hiện một cách tình cờ, đôi khi chúng gây nên các triệu chứng lâm sàng.

Về thăm khám, bệnh biểu hiện bằng lớp da che phủ chỗ phồng với những khối ở phía trong ống tai làm che phủ màng nhĩ với mức độ khác nhau. Khối u xương nếu không gây bít tắc hoặc nhiễm khuẩn thì sẽ không có triệu chứng. Lồi xương nhiều ổ thường mắc phải do tiếp xúc, với nước lạnh nhiều lần, bệnh tiến triển và cần phẫu thuật để lấy bỏ.

Các khối u

Phần lớn cảc ung thư của ống tai là ung thư tế bào vẩy, trên lâm sàng các khối u hay biểu hiện bằng viêm tai ngoài kéo dài. Khi viêm tai ngoài không đáp ứng với điều trị thì cần phải sinh thiết sớm. Bệnh có tỉ lệ tử vong trong vòng 5 năm rất cao. Về điều trị cần phải phẫu thuật lấy bỏ rộng và điều trị tia xạ. Các khối u tuyến, có nguồn gốc từ tuyến ráy, thường tiến triển chậm hơn.

Bài viết cùng chuyên mục

Biểu hiện của nhiễm HIV tai mũi họng

Sự tăng lên của u carcinom tế bào vẩy cũng thấy ở nhóm người đồng tính luyến ái, có lẽ cũng liên quan đến nhiễm HIV.

Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ

Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau.

Dị vật khí phế quản, thực quản

Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.

Mở khí quản và mở màng nhẫn giáp

Chăm sóc sau mở khí quản là cần làm ẩm không khí đề phòng tạọ vảy bít tắc ống đặt khí quản, ống trong phải được rửa sạch vài lần trong ngày.

Liệt dây thanh âm

Liệt dây thanh âm hai bên thường gây nên thở rít. Nếu khởi phát đột ngột, thở rít cả thì thở ra và hít vào, gây nên hẹp đường thở thì phải mở giáp móng cấp cứu.

U thanh quản

Việc điều trị đòi hỏi thay đổi thói quen về nói và được coi là phương pháp điều trị giọng nói. Với các hạt không hồi phục có thể đòi hỏi phải phẫu thuật lấy bỏ.

Các rối loạn thanh quản hay gặp

Nếu người lớn bị viêm thanh thiệt được phát hiện sớm có thể tránh được đặt ống nội khí quản, trong những trường hợp này theo dõi nồng độ bão hòa oxy huyết cầu tố bằng máy đo oxy.

Khàn tiếng và thở rít: bệnh lý thanh quản

Giọng thô ráp khi sự xáo động tạo nên do sự bất thường của dây thanh âm như viêm thanh quản hoặc khối u dây thanh âm.

U tuyến nước bọt

Hầu hết u của tuyến mang tai thể hiện như một khối không có triệu chứng ở phần ngoài của tuyến. Khối u có thể được bệnh nhân nhận thấy trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.

Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản

Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.

Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu

Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.

Cắt amidan

Hiện nay thấy rõ ràng là các bệnh nhân phẫu thuật cắt amidan ngoại trú thường an an toàn nếu theo dõi trong thời gian 6 giờ mà không có biến có gì.

Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào

Trong một vài trường hợp có đề nghị chấp nhận cắt amidan ngay cùng với dẫn lưu áp xe và tránh sự tái phát. Cả hai cách đều hợp lý và được ủng hộ trong y văn.

Viêm họng và viêm amidan

Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.

Tổn thương loét trong miệng

Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.

Viêm lưỡi và đau lưỡi

Đôi khi không tìm được nguyên nhân gây đau lưỡi. Bệnh quanh răng không phải là yếu tố gây đau lưỡi.

Bệnh nấm candida

Chẩn đoán thường không khó, những mảng trắng trong miệng gây đau trên nền xung huyết ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm nấm candida.

Bạch sản, hồng sản và ung thư miệng

Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân.

Bệnh u hạt Wegener, bệnh tăng tế bào lưới đa hình thái, bệnh sarcoid

Bệnh sarcoid cũng thường biểu hiện ở xoang và triệu chứng lâm sàng cũng tương tự. Sinh thiết thấy tổ chức hạt không hoại tử.

Các khối u lành tính trong mũi

Ù nhú đảo ngược là u lành tính thường xuất phát ở thành bên của mũi, biểu hiện bằng tắc mũi một bên, đôi khi chảy máu.

Chấn thương mũi

Nghĩ tới gãy xương khi sờ thấy lạo xạo hoặc thấy những mảnh xương di động. Chảy máu và đau thường gặp, cũng như những tụ máu ở phần mềm (dấu hiệu mắt đen).

Chảy máu mũi

Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.

Rối loạn chức năng khứu giác

Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.

Viêm mũi dị ứng

Dùng steroid trong viêm mũi có vai trò với dị ứng theo mùa, có polip mũi, thường làm giảm các chỉ định phẫu thuật.

Bệnh nấm mucor mũi nội sọ

Triệu chứng khởi đầu có thể giống như viêm xoang nhiễm khuẩn, mặc dầu triệu chứng đau mặt thường dữ dội hơn. Khám niêm mạc mũi cố vẻ biểu hiện màu đen, và hoại tử chính ở cuốn dưới.

Viêm tiền đình do mũi

Điều trị đầy đủ nhiễm khuẩn rất quan trọng để ngăn chặn nhiễm khuẩn ngược dòng qua đường tĩnh mạch vào xoang tĩnh mach hang và vào nôi sọ.

Viêm xoang cấp

Viêm xoang xảy ra khi không dẫn lưu được mủ ứ đọng trong xoang. Các bệnh làm phù nề niêm mạc như viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng là những nguyên nhân thường gặp.

Viêm mũi do virus: cảm cúm

Thuốc xịt mũi như oxymetazolin hoặc phenylephrin có tác dụng nhanh chóng, không nên dùng các thuốc này kéo dài vì sẽ gây nên xung huyết trở lại mà thường là nặng hơn lúc đầu.

Các biểu hiện ở tai của bệnh AIDS

Các bệnh nhân AIDS thường phàn nàn có ảnh hưởng tới tai trong, nghe kém tiếp nhận thường gặp và một số trưồng hợp do nhiễm virus hệ thần kinh trung ương.

Các bệnh của hệ thống thính giác và tiền đình trung ương

Chóng mặt do tổn thương trung ương có xu hướng thành mạn tính và nhẹ hơn là chóng mặt gặp trong các bệnh mê nhĩ.

Chóng mặt do bệnh lý tai trong

Khám thực thể tối thiểu cho bệnh nhân chóng mặt gồm test Romberg, đánh giá dáng đi, quan sát có rung giật nhãn cầu hay không.

Ù tai: bệnh lý tai trong

Ù tai theo nhịp mạch phải được phân biệt với ù tai âm. Tiếng mạch đập thường do điếc dẫn truyền làm tăng sự truyền tiếng đập của động mạch cảnh rõ hơn.

Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong

Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu.

Đau tai: chẩn đoán và điều trị

Đau tai dữ dội mà không tương ứng với phát hiện thực thể có thể do virus zona ở tai, đặc biệt khi có những phổng nước ở ống tai hoặc hố thuyền.

Bệnh lý tai giữa

Các loại vi khuẩn hay gặp ở cả người lớn và trẻ em là Streptococcus Pneumonia, Hemophilus Influenzae và S. pyogenes.

Bệnh lý vòi nhĩ: vòi eustachi

Trường hợp mở vòi nhĩ quá mức hiếm gặp và khó điều trị. Bệnh nhân thường phàn nàn là cảm giác đầy trong tai và tự thính, bệnh nhân nghe thấy mình thở hoặc nói.

Bệnh lý vành tai

Cũng tương tự, những trường hợp bị viêm mô tế bào vành tai phải được điều trị ngay đề phòng sự tiến triển tới viêm màng sụn và các hậu quả biến dạng của nó.

Nghe kém: chẩn đoán và điều trị

Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.

Các khối u ác tính vùng mũi họng và xoang

Ung thư biểu mô lát hay gặp nhất ở vùng giải phẫu này, đặc biệt hay gặp ở vùng mũi họng, ở đây nó thường hay gây tắc vòi nhĩ và viêm tai tiết dịch.