Đau đầu nguồn gốc trong sọ: các thể đau đầu trong sọ

2021-09-11 02:49 PM

Mô não hầu như hoàn toàn không nhạy cảm với đau. Thậm chi khi cắt hoặc khi kích thích điện những vùng nhạy cảm của vỏ não chỉ thỉnh thoảng gây đau.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đau đầu là một loại đau phóng chiếu đến bề mặt của đầu từ những cấu trúc sau trong đầu. Một vài đau đầu là do kích thích đau phát sinh từ bên trong sọ não, nhưng những đau đầu khác là do kích thích đau bên ngoài hộp sọ như viêm xoang mũi.

Những vùng nhạy cảm đau trong vòm não

Mô não hầu như hoàn toàn không nhạy cảm với đau. Thậm chi khi cắt hoặc khi kích thích điện những vùng nhạy cảm của vỏ não chỉ thỉnh thoảng gây đau; thay vào đó, nó gây ra loại dị cảm có cảm giác kim châm trên những vùng của cơ thể tương ứng với phần vỏ não cảm giác nào đó bị kích thích. Do đó, dường như nhiều hoặc hầu hết đau đầu là không phải do tổn thương tại đầu.

Ngược lại, kéo mạnh vào xoang tĩnh mạch xung quanh não, tổn thương lều não (tentorium), hoặc sự căng của màng cứng đáy não có thể gây đau dữ dội mà được cảm nhận rằng là đau đầu. Hơn nữa, hầu như bất kì loại chấn thương, và đập hoặc kéo giãn nào kích thích đến những tĩnh mạch của não cũng có thể gây đau đầu. Một cấu trúc nhạy cảm đặc biệt là động mạch não giữa, và nhà phẫu thuật thần kinh thường rất thận trọng để làm mất cảm giác động mạch này khi mà phẫu thuật não sử dụng loại gây mê vùng.

Các vùng đau đầu do các nguyên nhân khác nhau

Hình. Các vùng đau đầu do các nguyên nhân khác nhau.

Những vùng của đầu mà đau đầu trong sọ phóng chiếu đến

Hưng phấn của receptor đau trong vòm sọ trên lều, bao gồm mặt trên của chính lều não, khởi đầu đau ở phần của não của dây thần kinh số năm, và do đó gây đau đầu ở phần trước của đầu ở vùng bề mặt, được cảm nhận bởi phần cảm giác bản thể của dây thần kinh sọ số năm như được diễn tả trong SƠ ĐỒ 49-9. Ngược lại, những xung động đau từ dưới lều vào hệ thần kinh trung ương chủ yếu qua dây thần kinh lưỡi hầu, dây thần kinh phế vị và dây thần kinh cổ 2, những dây này chi phối cho da đầu ở vùng trên, sau và vùng mỏng phía dưới tai. Kích thích đau dưới lều gây ra “đau chẩm” phóng chiếu đến phần sau của đầu.

Đau đầu trong viêm màng não

Một trong những đau đầu dữ dội nhất trong tất cả là đau đầu do viêm màng não, nó gây viêm nhiễm tất cả màng não, bao gầm những vùng nhạy cảm của màng cứng và những vùng nhạy cảm quanh các xoang tĩnh mạch.Tổn thương dữ dội như vậy có thể gây đau đầu kinh khủng phóng chiếu đến toàn bộ đầu.

Đau đầu do áp lực dịch não tủy thấp

Rút ra tầm 20ml địch não tủy từ ống sống, đặc biệt nếu bệnh nhân tiếp tục đứng thẳng, thường gây đau đầu nội sọ dữ dội. Rút ra số lượng như vậy dịch não tủy làm di chuyển phần nổi của não, phần nổi đó được tạo ra bởi dịch não tủy. Trọng lượng của não đè ép và làm méo mó những bề mặt khác nhau của màng cứng và do đó kích thích đau và gây đau đầu.

Đau nửa đầu

Đau nửa đầu là một loại đau đầu đặc biệt mà do hiện tượng mạch không bình thường, mặc dù cơ chế chính xác chưa được biết. Đau nửa đầu thường bắt đầu với những cảm giác tiền triệu khác nhau, như nôn, mất thị giác, tiền triệu về thị giác, và các loại cảm giác ảo giác khác. Thông thường, các triệu chứng tiền triệu bắt đầu 30 phút đến 1 giờ trước khi bắt đầu đau đầu. Bất kì thuyết nào giải thích đau nửa đầu cũng phải giải thích được các triệu chứng tiền triệu.

Một thuyết đau nửa đầu chỉ ra là do căng thẳng và xúc động kéo dài gây nên phản xạ co thắt một vài động mạch của đầu, bao gồm động mạch nuôi dưỡng não. Sự co thắt theo lý thuyết sẽ dẫn đến thiếu máu cục bộ một phần nào đó của não, điều này là nguyên do của các triệu chứng tiền triệu. Sau đó, do thiếu máu cục bộ dữ dội, một vài thứ xảy ra đối với thành mạch, có lẽ sự mỏi cơ cho phép mạch máu trở nên nhẽo và không thể duy trì áp trương lực mạch bình thường trong 24 đến 48 giờ. Áp lực máu trong mạch làm mạch giãn nở và đập một cách dữ dội, và đó là nguyên lysy cơ bản mà làm căng thành động mạch quá mức - bao gồm một vài động mạch ngoài sọ, chẳn hạn như động mạch thái dương - gây đau đầu thực sự. Những thuyết khác về đau nửa đầu bao gồm sự căng giãn của vỏ não, sự không bình thường của tâm lý, và sự co thắt bị gây ra bởi lượng Kali trong dịch ngoài tế bào não vượt quá mức.

Có lẽ có một yếu tố bẩm sinh di truyền đau nửa đầu bởi vì tiền sử gia đình dương tính đau nửa đầu được thông báo trong 65 đến 90% các trường hợp. Đau nửa đầu cũng thường xảy ra ở phụ nữ gấp hai lần ở nam giới.

Đau đầu do rượu

Như nhiều người đã trải qua, đau đầu thường xảy ra khi uống một lượng rượu quá mức. Dường như là rượu độc với các mô, trực tiếp kích thích não và gây ra đau nội sọ. Sự mất nước có lẽ đóng vai trò trong tàn tích của những cuộc chè chén say xưa; sự hydrat háo thường làm yếu đi nhưng không thể triệt tiêu hết đau đầu và các triệu chứng tàn tích khác của say rượu.

Bài viết cùng chuyên mục

Ước tính mức lọc cầu thận: độ thanh thải và nồng độ creatinin huyết tương

Nếu như mức lọc cầu thận đột ngột giảm xuống còn 50% giá trị bình thường, thận sẽ không lọc hết và chỉ bài tiết một nửa lượn creatinine, gây lắng đọng creatinine trong cơ thể.

Hệ nhóm máu ABO và kháng nguyên trên màng hồng cầu

Trên màng hồng cầu, người ta tìm thấy khoảng 30 kháng nguyên thường gặp và hàng trăm kháng nguyên khác. Các kháng nguyên này đều có phản ứng kháng nguyên kháng thể.

Ngừng tuần hoàn trong shock: thời gian tổn thương não phụ thuộc vào tắc mạch

Trong nhiều năm, người ta đã dạy rằng tác động có hại này lên não là do tình trạng thiếu oxy não cấp tính xảy ra trong quá trình ngừng tuần hoàn.

Những chức năng của thận

Thận thực hiện các chức năng quan trọng nhất của chúng bằng cách lọc huyết tương và loại bỏ các chất từ ​​dịch lọc với tốc độ thay đổi, tùy thuộc vào nhu cầu của cơ thể.

Hồng cầu máu: nồng độ hình dạng kích thước và chức năng

Các tế bào hồng cầu có chức năng khác ngoài vận chuyển hemoglobin, nó chứa một lượng lớn carbonyc anhydrase, một enzyme xúc tác cho phản ứng thuận ngịch giữa CO2 và nước tạo ra carbonic acid (H2CO3), làm tăng tốc độ phản ứng.

Toan gây giảm HCO3-/H+ trong dịch ống thận: cơ chế bù trừ của thận

Cả nhiễm toan hô hấp và chuyển hóa đều gây giảm tỉ lệ HCO3-/H+ trong dịch ống thận. Như một kết quả, sự quá mức H+ trong ống thận làm giảm tái hấp thu HCO3- và để lại thêm H+ có sẵn để kết hợp với bộ đệm tiết niệu NH4+ và HPO4--.

Điều chỉnh bài tiết H + ở ống thận

Những thay đổi về nồng độ K+ trong huyết tương cũng có thể ảnh hưởng đến sự tiết H+ của ông thận. Hạ kali máu kích thích và tăng kali máu ức chế H + bài tiết ở ống lượn gần.

Điều chỉnh bài tiết phốt phát của thận

Những thay đổi về khả năng tái hấp thu phosphat ở ống thận cũng có thể xảy ra trong các điều kiện khác nhau và ảnh hưởng đến sự bài tiết phosphat.

Cơ chế bệnh sinh của xơ vữa động mạch

Các mảng xơ vữa bám vào còn ảnh hưởng tới dòng máu chảy, bề mặt thô ráp của chúng làm cho các cục máu đông phát triển tại đó, tạo thành huyết khối tại chỗ hoặc cục máu đông.

Bài tiết H + chủ động: trong các tế bào kẽ của ống lượn xa và ống góp

Mặc dù sự bài tiết H+ ở đoạn cuối ống lượn xa và ống góp chỉ chiếm khoảng 5% của tổng H+ bài tiết. Nhưng cơ chế này rất quan trọng trong việc acid hóa tối đa nước tiểu.

Bệnh thận: tổn thương thận cấp và bệnh thận mạn

Trong phạm vi 2 phân loại, có rất nhiều các bệnh thận cụ thể có thể ảnh hưởng đến các mạch máu thận, cầu thận, ống thận, kẽ thận, các bộ phận của đường tiết niệu bên ngoài thận bao gồm cả niệu quản và bàng quang.

Hội chứng thận hư: mất protein theo nước tiểu và giữ natri

Do nồng độ protein huyết tương giảm, áp suất thẩm thấu keo huyết tương giảm xuống mức thấp. Điều này khiến các mao mạch trên khắp cơ thể lọc một lượng lớn dịch vào các mô khác nhau, do đó gây ra phù nề và giảm thể tích huyết tương.

Các yếu tố chính điều chỉnh sự bài tiết kali của thận

Các yếu tố quan trọng nhất kích thích sự bài tiết kali của các tế bào chính bao gồm tăng nồng độ kali trong dịch ngoại bào, tăng aldosterone, và tăng tốc độ dòng chảy của ống thận.

Sinh lý bệnh của bệnh đần độn

Thiếu hụt bẩm sinh tuyến giáp, tuyến giáp không có khả năng sản xuất hormon giáp do khiếm khuyết một gen của tuyến, hoặc do thiếu hụt iod trong chế độ ăn.

Tổn thương thận cấp trước thận: nguyên nhân do giảm lượng máu tới thận

Khi dòng máu tới thận giảm thấp hơn nhu cầu cơ bản, thường dưới 20-25% dòng máu tới thận bình thường, các tế bào thận trở nên thiếu oxy, và giảm hơn nữa lượng máu tới thận, nếu kéo dài, sẽ gây tổn thương.

Vị trí tính chất và vai trò của môn sinh lý bệnh

Môn sinh lý bệnh, như định nghĩa đã nêu rõ; đi từ những hiện tượng bệnh lý cụ thể, tìm cách khái quát hóa thành những quy luật.

Giải phẫu sinh lý của thận và hệ tiết niệu

Mặt giữa của mỗi quả thận chứa một vùng rốn, qua đó đi qua động mạch thận và tĩnh mạch, bạch huyết, cung cấp thần kinh và niệu quản, nơi mang nước tiểu cuối cùng từ thận đến bàng quang.

Bài giảng rối loạn chuyển hóa protid

Giảm protid huyết tương phản ánh tình trạng giảm khối lượng protid của cơ thể, một gam protid huyết tương đại diện cho 30 gam protid của cơ thể.

Giảm mức lọc cầu thận: tăng áp suất thủy tĩnh của khoang Bowman

Trong trạng thái bệnh nào đó liên quan đến cấu trúc đường tiểu, áp lực khoang Bowman’s có thể tăng rõ rệt, gây ra giảm trầm trọng mức lọc cầu thận.

Định nghĩa bệnh sinh

Trong điều trị học, nếu biết được nguyên nhân để điều trị là tốt nhất nhưng nếu không biết được nguyên nhân thì điều trị theo cơ chế bệnh sinh.

Giảm mức lọc cầu thận: hoạt động của hệ thần kinh giao cảm mạnh

Tất cả mạch máu trong thận, gồm tiểu động mạch đến và đi, giàu phân bố các dây thần kinh của hệ thần kinh giao cảm. Thần kinh giao cảm hoạt động mạnh làm co tiểu động mạch thận và giảm dòng chảy qua thận và mức lọc cầu thận.

Tồn tại ống động mạch: bệnh tim bẩm sinh shunt trái phải

Ngay sau khi trẻ được sinh ra và bắt đầu thở, phổi sẽ phồng lên, các phế nang chứa đầy không khí mà sức cản của dòng máu qua cây mạch phổi cũng giảm rất nhiều, tạo điều kiện cho áp lực động mạch phổi giảm xuống.

Hiểu biết toàn diện cơ chế bệnh sinh của béo phì

Nguy cơ béo phì ảnh hưởng đến nhiều bệnh lý khác nhau như xơ gan, tăng huyết áp, bệnh lý tim mạch, đột quỵ, và bệnh thận xuất hiện liên quan nhiều tới béo tạng (béo bụng) hơn là tăng dự trữ mỡ dưới da, hoặc dự trữ chất béo phần thấp cơ thể như là hông.

Dẫn truyền đau: con đường kép trong hệ thần kinh trung ương

Receptor đau là các đầu mút tận cùng tự do, nhưng các đầu tận cùng này sử dụng hai đường để dẫn truyền các dấu hiệu đau trong hệ thần kinh trung ương. Hai đường tương đương với hai kiểu đau: đường đau nhanh và đường đau chậm.

Bạch cầu đa nhân trung tính và đại thực bào chống lại nhiễm khuẩn

Cả bạch cầu hạt trung tính và đại thực bào có thể di chuyển trong mô bằng chuyển động kiểu amip. Vài tế bào di chuyển với tốc độ nhanh khoảng 40 µm/ph, một khoảng cách lớn so với chiều dai cơ thể chúng mỗi phút.