- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng sinh lý bệnh
- Đau đầu nguồn gốc trong sọ: các thể đau đầu trong sọ
Đau đầu nguồn gốc trong sọ: các thể đau đầu trong sọ
Mô não hầu như hoàn toàn không nhạy cảm với đau. Thậm chi khi cắt hoặc khi kích thích điện những vùng nhạy cảm của vỏ não chỉ thỉnh thoảng gây đau.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đau đầu là một loại đau phóng chiếu đến bề mặt của đầu từ những cấu trúc sau trong đầu. Một vài đau đầu là do kích thích đau phát sinh từ bên trong sọ não, nhưng những đau đầu khác là do kích thích đau bên ngoài hộp sọ như viêm xoang mũi.
Những vùng nhạy cảm đau trong vòm não
Mô não hầu như hoàn toàn không nhạy cảm với đau. Thậm chi khi cắt hoặc khi kích thích điện những vùng nhạy cảm của vỏ não chỉ thỉnh thoảng gây đau; thay vào đó, nó gây ra loại dị cảm có cảm giác kim châm trên những vùng của cơ thể tương ứng với phần vỏ não cảm giác nào đó bị kích thích. Do đó, dường như nhiều hoặc hầu hết đau đầu là không phải do tổn thương tại đầu.
Ngược lại, kéo mạnh vào xoang tĩnh mạch xung quanh não, tổn thương lều não (tentorium), hoặc sự căng của màng cứng đáy não có thể gây đau dữ dội mà được cảm nhận rằng là đau đầu. Hơn nữa, hầu như bất kì loại chấn thương, và đập hoặc kéo giãn nào kích thích đến những tĩnh mạch của não cũng có thể gây đau đầu. Một cấu trúc nhạy cảm đặc biệt là động mạch não giữa, và nhà phẫu thuật thần kinh thường rất thận trọng để làm mất cảm giác động mạch này khi mà phẫu thuật não sử dụng loại gây mê vùng.

Hình. Các vùng đau đầu do các nguyên nhân khác nhau.
Những vùng của đầu mà đau đầu trong sọ phóng chiếu đến
Hưng phấn của receptor đau trong vòm sọ trên lều, bao gồm mặt trên của chính lều não, khởi đầu đau ở phần của não của dây thần kinh số năm, và do đó gây đau đầu ở phần trước của đầu ở vùng bề mặt, được cảm nhận bởi phần cảm giác bản thể của dây thần kinh sọ số năm như được diễn tả trong SƠ ĐỒ 49-9. Ngược lại, những xung động đau từ dưới lều vào hệ thần kinh trung ương chủ yếu qua dây thần kinh lưỡi hầu, dây thần kinh phế vị và dây thần kinh cổ 2, những dây này chi phối cho da đầu ở vùng trên, sau và vùng mỏng phía dưới tai. Kích thích đau dưới lều gây ra “đau chẩm” phóng chiếu đến phần sau của đầu.
Đau đầu trong viêm màng não
Một trong những đau đầu dữ dội nhất trong tất cả là đau đầu do viêm màng não, nó gây viêm nhiễm tất cả màng não, bao gầm những vùng nhạy cảm của màng cứng và những vùng nhạy cảm quanh các xoang tĩnh mạch.Tổn thương dữ dội như vậy có thể gây đau đầu kinh khủng phóng chiếu đến toàn bộ đầu.
Đau đầu do áp lực dịch não tủy thấp
Rút ra tầm 20ml địch não tủy từ ống sống, đặc biệt nếu bệnh nhân tiếp tục đứng thẳng, thường gây đau đầu nội sọ dữ dội. Rút ra số lượng như vậy dịch não tủy làm di chuyển phần nổi của não, phần nổi đó được tạo ra bởi dịch não tủy. Trọng lượng của não đè ép và làm méo mó những bề mặt khác nhau của màng cứng và do đó kích thích đau và gây đau đầu.
Đau nửa đầu
Đau nửa đầu là một loại đau đầu đặc biệt mà do hiện tượng mạch không bình thường, mặc dù cơ chế chính xác chưa được biết. Đau nửa đầu thường bắt đầu với những cảm giác tiền triệu khác nhau, như nôn, mất thị giác, tiền triệu về thị giác, và các loại cảm giác ảo giác khác. Thông thường, các triệu chứng tiền triệu bắt đầu 30 phút đến 1 giờ trước khi bắt đầu đau đầu. Bất kì thuyết nào giải thích đau nửa đầu cũng phải giải thích được các triệu chứng tiền triệu.
Một thuyết đau nửa đầu chỉ ra là do căng thẳng và xúc động kéo dài gây nên phản xạ co thắt một vài động mạch của đầu, bao gồm động mạch nuôi dưỡng não. Sự co thắt theo lý thuyết sẽ dẫn đến thiếu máu cục bộ một phần nào đó của não, điều này là nguyên do của các triệu chứng tiền triệu. Sau đó, do thiếu máu cục bộ dữ dội, một vài thứ xảy ra đối với thành mạch, có lẽ sự mỏi cơ cho phép mạch máu trở nên nhẽo và không thể duy trì áp trương lực mạch bình thường trong 24 đến 48 giờ. Áp lực máu trong mạch làm mạch giãn nở và đập một cách dữ dội, và đó là nguyên lysy cơ bản mà làm căng thành động mạch quá mức - bao gồm một vài động mạch ngoài sọ, chẳn hạn như động mạch thái dương - gây đau đầu thực sự. Những thuyết khác về đau nửa đầu bao gồm sự căng giãn của vỏ não, sự không bình thường của tâm lý, và sự co thắt bị gây ra bởi lượng Kali trong dịch ngoài tế bào não vượt quá mức.
Có lẽ có một yếu tố bẩm sinh di truyền đau nửa đầu bởi vì tiền sử gia đình dương tính đau nửa đầu được thông báo trong 65 đến 90% các trường hợp. Đau nửa đầu cũng thường xảy ra ở phụ nữ gấp hai lần ở nam giới.
Đau đầu do rượu
Như nhiều người đã trải qua, đau đầu thường xảy ra khi uống một lượng rượu quá mức. Dường như là rượu độc với các mô, trực tiếp kích thích não và gây ra đau nội sọ. Sự mất nước có lẽ đóng vai trò trong tàn tích của những cuộc chè chén say xưa; sự hydrat háo thường làm yếu đi nhưng không thể triệt tiêu hết đau đầu và các triệu chứng tàn tích khác của say rượu.
Bài viết cùng chuyên mục
Thuốc ức chế carbonic anhydrase: ức chế tái hấp thu NaHCO3 ở ống lượn gần
Do việc bài tiết ion hydro (H+) và tái hấp thu HCO3- ở ống lượn gần được thực hiện cùng nhau thông qua cơ chế đồng vận chuyển ngược chiều Na-H+ ở mặt trong màng, giảm tái hấp thu HCO3- cũng làm giảm tái hấp thu natri.
Hệ thống đệm bicarbonate điều chỉnh kiềm toan trong cơ thể
Từ những phản ứng, ta có thể thấy rằng H+ từ axit mạnh HCl phản ứng với HCO3- tạo thành H2CO3 axit rất yếu, do đó bị phân huỷ tạo thành CO2 và H2O. CO2 dư thừa rất nhiều dẫn tới kích thích hô hấp, trong đó loại bỏ CO2 từ dịch ngoại bào.
Tự điều hòa mức lọc cầu thận để ngăn ngừa thay đổi bài tiết của thận
Những cơ chế kiểm soát đặc biệt, thay đổi huyết áp vẫn có những ảnh hưởng đáng kể về bài tiết nước và muối; này được gọi là nhiều áp lực tiểu hoặc bài niệu natri áp lực, và nó là rất quan trọng trong việc điều tiết lượng dịch cơ thể và huyết áp.
Tăng mức lọc cầu thận: tăng hệ số lọc mao mạch cầu thận
Mặc dù tăng Kf kéo theo tăng mức lọc cầu thận và giảm Kf, làm giảm mức lọc cầu thận, nhưng thay đổi Kf hầu như chắc chắn không là cơ chế tiên phát cho việc điều chỉnh mức lọc cầu thận hàng ngày bình thường.
Ước tính lưu lượng huyết tương qua thận: độ thanh thải PAH
Do mức lọc cầu thận mức lọc cầu thận chỉ chiếm khoảng 20% lưu lượng máu qua thận, một chất được thải trừ hoàn toàn ra khỏi huyết tương phải được bài tiết ở ống thận cũng như lọc ở cầu thận.
Lợi tiểu thiazide: ức chế tái hấp thu natri và clo ở phần đầu ống lượn xa
Trong điều kiện thuận lợi, các thuốc này có thể bài tiết thêm tối đa khoảng 5-10% lượng dịch lọc cầu thận vào nước tiểu, tương đương với lượng natri bình thường được tái hấp thu ở ống lượn xa.
Rối loạn nuốt và co thắt thực quản
Co thắt thực quản là tình trạng mà cơ thắt thực quản dưới không thể giãn khi nuốt. Hệ quả là thức ăn nuốt vào thực quản không thể đi tới dạ dày.
Kiểm soát sự bài tiết canxi ở thận và nồng độ ion canxi ngoại bào
Đường tiêu hóa và các cơ chế điều hòa ảnh hưởng đến sự hấp thu và bài tiết canxi ở ruột đóng một vai trò quan trọng trong việc cân bằng canxi nội môi.
Điều trị suy thận: ghép thận hoặc lọc máu với thận nhân tạo
Lọc máu không thể duy trì hoàn toàn bình thường các thành phần dịch cơ thể và không thể thay thế hoàn toàn các chức năng phức tạp của thận, sức khỏe của bệnh nhân vẫn bị suy giảm đáng kể.
Thay đổi trong quá trình lão hoá
Tuyến ức liên tục giảm kích thước và chức năng ngay từ khi cơ thể còn trẻ, đến tuổi trung niên thì thoái hoá hẳn
Hình thành nước tiểu cô đặc: ure góp phần tăng áp lực thẩm thấu vùng tủy thận
Nồng độ cao của urê trong dịch ống thận của ống góp vùng tủy trong làm cho urê khuếch tán ra khỏi ống thận đi vào dịch kẽ thận.
Phân loại và đặc điểm của đau: đau nhanh và đau chậm
Đau được phân thành hai loại chính: đau nhanh và đau chậm. Đau nhanh được cảm nhận thấy trong vòng khoảng 0.1 giây sau khi một kích thích đau được gây ra, trong khi đau chậm bắt đầu chỉ sau 1 giây hoặc hơn.
Cơn đau khác thường trên lâm sàng: những cảm giác bản thể
Nhiều bệnh của cơ thể gây đau. Hơn nữa khả năng chẩn đoán những bệnh khác nhau phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết của bác sĩ lâm sàng về những đặc tính khác nhau của đau.
Các nguyên nhân rối loạn cân bằng acid base trên lâm sàng
Cách điều trị tốt nhất cho nhiễm acid hoặc nhiễm kiềm là điều chỉnh lại tình trạng gây ra sự bất thường. Điều này thường rất khó, đặc biệt đối với các bệnh mạn tính làm suy yếu chức năng của phổi hoặc gây ra suy thận.
Bài giảng rối loạn cân bằng Acid Base
Nhiễm độc acid, hay nhiễm toan, là một quá trình bệnh lý, có khả năng làm giảm pH máu xuống dưới mức bình thường.
Sinh lý bệnh về sốt
Ngày nay người ta biết, có nhiều chất có tác động lên trung tâm điều nhiệt, gây sốt được sản xuất từ nhiều loại tế bào khác nhau, gọi chung là các cytokine gây sốt.
Điều trị shock phản vệ và shock thần kinh: tác dụng của thuốc cường giao cảm
Thuốc cường giao cảm có tác dụng co mạch đối lập với tác dụng giãn mạch của histamine. Do đó, epinephrine, norepinephrine, hoặc các loại thuốc cường giao cảm khác thường là cứu cánh.
Quá trình tạo cục máu đông: điều hòa ngược dương tính
Khi đã có một lượng thrombin nhất định được tạo thành, sẽ có một điều hòa ngược dương tính tạo nên càng nhiều cục máu đông và thrombin. Do đó, cục máu đông tiếp tục phát triển cho đến khi máu ngừng chảy.
Bạch cầu đa nhân trung tính và đại thực bào chống lại nhiễm khuẩn
Cả bạch cầu hạt trung tính và đại thực bào có thể di chuyển trong mô bằng chuyển động kiểu amip. Vài tế bào di chuyển với tốc độ nhanh khoảng 40 µm/ph, một khoảng cách lớn so với chiều dai cơ thể chúng mỗi phút.
Bệnh thận mạn: vòng xoắn bệnh lý dẫn đến bệnh thận giai đoạn cuối
Biện pháp hiệu quả nhất để làm chậm lại quá trình suy giảm chức năng thận này là giảm huyết áp động mạch và giảm áp lực ở cầu thận, đặc biệt bằng việc sử dụng các thuốc như ức chế men chuyển hoặc thuốc ức chế thụ thể angiotensin II.
Tái hấp thu clorua, urê và các chất hòa tan khác ở thận bằng cách khuếch tán thụ động
Creatinine là một phân tử lớn hơn ure và hầu như không thấm qua màng tế bào ống thận. Do đó, creatinin lọc ở cầu thận gần như không được tái hấp thu, và do đó tất cả creatinin lọc ở cầu thận đều bài tiết ra nước tiểu.
Đại cương sinh lý bệnh cân bằng nước điện giải
Kích thích chủ yếu của sự nhập nước là khát, xuất hiện khi áp lực thẩm thấu hiệu quả tăng hoặc thể tích ngoại bào hay huyết áp giảm.
Suy tim trái: nghẽn mạch phổi và phù phổi
Khi tim trái suy mà tim phải bình thường, máu tiếp tục được tống lên phổi nhờ tim phải, trong khi nó không được bơm ra khỏi phổi nhờ tim trái vào tuần hoàn hệ thống.
Giảm mức lọc cầu thận: tăng áp suất thẩm thấu keo mao mạch cầu thận
Tăng áp suất keo huyết tương động mạch kéo theo tăng áp suất keo mao mạch cầu thận, quay trở lại làm giảm mức lọc cầu thận.
Suy tim mất bù: những thay đổi huyết động học trong suy tim nặng
Khi phát hiện tình trạng mất bù nghiêm trọng bằng tăng phù, đặc biệt là phù phổi, dẫn đến ran nổ và khó thở. Thiếu điều trị phù hợp trong giai đoạn cấp này có thể dẫn đến tử vong.
