Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm

2012-12-01 10:06 AM

Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh sợi

Danh từ bệnh sợi hoặc bệnh u sợi được dùng để chỉ các tổn thương tăng sản mô sợi lành tính.

Hầu hết các bệnh sợi là sự tăng sản dai dẳng của mô sẹo. Đôi khi mô sợi tăng sản mạnh và tạo thành một khối u xâm nhập (nên được gọi là bệnh u sợi) cấu tạo bởi các tế bào sợi biệt hoá. Như vậy bệnh sợi gồm có nhiều tổn thương khác nhau:

U bó sợi (hay u dạng sợi)

Danh từ u dạng sợi lúc đầu dùng để chỉ bệnh sợi ở mô cơ thành bụng của các phụ nữ đã có thai, về sau thấy tổn thương này cũng gặp ở đàn ông, trẻ em và ở các nhóm cơ lớn khác.

Tổn thương gồm tăng sản mô sợi giống như mô sẹo quá sản và xen kẽ vào mô cơ xung quanh. Mô bệnh xâm nhập thầm lặng vào mô cơ xung quanh nên khó lòng cắt bỏ hết, do đó sẽ tái phát sau mổ. Vì vậy tổn thương này dễ bị chẩn đoán nhầm là sarcom sợi. Tuy nhiên, u dạng sợi không di căn xa nhưng có thể gây biến chứng chèn ép thần kinh mạch máu. Một số tác giả sử dụng hóa trị kèm phẫu trị.

Bệnh sợi lòng bàn tay, lòng bàn chân

Tăng sản mô sợi ở lòng bàn tay, lòng bàn chân có thể đạt một kích thước lớn (6 cm) và gây co gập các ngón kiểu Dupuytren. Tổn thương có thể xâm nhập lớp bì da và màng cân nên thường tái phát trừ khi cắt bỏ hết màng cân và mô xung quanh. Tổn thương này không hoá ác.

Bệnh sợi ở cổ

Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.

U sợi hoá vôi (U sợi màng cân ở thanh thiếu niên)

Tăng sản sợi từ màng cân của bàn tay hay bàn chân trẻ em, có khuynh hướng hoá canxi, lớn chậm bằng cách xâm nhập, thường tái phát do không cắt bỏ hết.

Bệnh sợi dương vật (Bệnh Peyronie)

Còn gọi là viêm thể hang mạn tính, hoá sợi. Mô sợi tăng sản làm cứng và biến dạng dương vật.

Bệnh sợi do tia xạ

Tia xạ liều cao vào phần mềm nông sẽ dẫn đến thành lập các mô sẹo tăng sản có thể nhận ra nhờ sự hiện diện của các nguyên bào sợi biến dạng quái dị dễ nhầm với ung thư. Tổn thương không cho di căn xa. Sarcom sợi có thể xảy ra ở vùng bị tia xạ nặng.

Viêm nốt màng cân

Còn có tên là viêm màng cân giả sarcom, bệnh sợi giả sarcom dưới da. Tổn thương gồm tăng sản các nguyên bào sợi có mô đệm nhầy ở dưới da, gần cân sâu. Tổn thương phát triển nhanh, có nhiều phân bào nên đôi khi nhầm với sarcom. Phần ngoại vi có nhiều mạch máu, ngấm các tế bào viêm chủ yếu loại đơn nhân. Viêm nốt màng cân thường gặp ở chi trên (cẳng tay...).

Ngoài ra, còn gặp các tổn thương khác, đặc biệt bệnh sợi hệ thống bẩm sinh.

U sợi

Danh từ u sợi thường được dùng một cách lỏng lẻo để chỉ những sự phát triển tại chỗ lành tính của mô sợi bất kể nó là mô u hay không.

Đa số các tác giả hiện nay cho là không có u lành sợi và các tổn thương trên chỉ là một dạng của bệnh sợi có tính chất phản ứng (Ackerman 1977, Aegerter 1968, Ashley 1978, Evans 1968, Mackenzie 1970 ...).

Stout (1967) dùng từ "fibroma" để chỉ những dị tật bẩm sinh nhô ra khỏi bề mặt của da, có cuống, cấu tạo bởi mô sợi bình thường của lớp bì. Tổn thương này còn gọi là "u sợi của da", hiếm gặp và không cần mổ.

Bọc màng gân khớp (Bọc hoạt dịch)

Bọc mọc gần khớp, thường dính với sợi gân vùng cổ tay, đôi khi ở bàn tay, bàn chân. Bọc có thể phát triển trong gân cơ, và sụn của xương bán nguyệt và rất hiếm khi thông với khớp.

Đại thể:

Tổn thương là một bọc chứa dịch nhầy gồm mucopolysacharide, có màu trắng vàng.

Vi thể:

Tổn thương có vách mô sợi, không lót bởi màng khớp.

Điều trị:

Có thể bóp bể bọc, chọc hút dịch nhầy và tiêm dectancyl hoặc hydrocortisone, hay giải phẫu cắt bỏ nhưng tỷ lệ tái phát đều cao. Tốt nhất là để yên nếu tổn thương nhỏ và không gây trở ngại gì.

Viêm nốt nhung mao màng khớp ngấm sắc tố

Bệnh có thể thuộc loại viêm nốt màng gân-khớp (u đại bào màng gân). Xảy ra ở các khớp lớn (khớp gối, đôi khi khớp háng), tổn thương là một khối lớn giống như sarcom, làm vỡ sụn khớp, và xâm nhập vào đầu xương.

Nguyên nhân bệnh không rõ, có thể là một phản ứng viêm với tăng sản mạnh tạo thành nhú, mô đệm có tăng sản nhiều mô bào, mô sợi và nhiều đại bào ăn hemosiderin và chất dạng mỡ.

Trường hợp tổn thương ở giai đoạn hoạt động, tế bào tăng sản một cách bất thường dễ chẩn đoán nhầm với ung thư. Khi tổn thương "già" đi, hình ảnh chủ yếu là mô sợi và thấm nhập limphô bào.

Chuyển sản sụn màng khớp

Thường gặp ở khớp gối, khớp háng người trung niên. Bệnh do mô liên kết ở dưới lớp tế bào màng khớp chuyển sản sụn (đôi khi hóa xương) tạo thành khối sụn nhô dần lên bề mặt màng khớp và rơi vào ổ khớp. Vì vậy bệnh còn được gọi là sạn khớp hay bệnh “chuột khớp”. Tổn thương gây hủy sụn khớp nên có biến chứng thoái hóa khớp sớm.

Mô hạt sinh mủ

Tổn thương mô hạt viêm do nhiễm vi khuẩn sinh mủ, đặc biệt rất giàu mạch máu. Hình ảnh rất giống với u mao mạch. Chẩn đoán phân biệt dựa vào bệnh sử và thấm nhập phong phú các loại tế bào viêm. Tuy nhiên nếu u mao mạch bị loét, bội nhiễm thì rất khó phân biệt 2 loại tổn thương này.

Bài viết cùng chuyên mục

Giải phẫu bệnh khớp xương

Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.

Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan

Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.

Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng

Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.

Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh

Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh của gan

Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung

Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.

Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù

Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh ung thư gan

Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.

Giải phẫu bệnh u lành phần mềm

Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.

Giải phẫu bệnh viêm lao

Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.

Lịch sử giải phẫu bệnh

Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.

Giải phẫu bệnh u và giả u ruột

Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Giải phẫu bệnh tinh hoàn

Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.

Giải phẫu bệnh dương vật

U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.

Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Giải phẫu bệnh của tuyến vú

Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.

Giải phẫu bệnh đại tràng

Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.

Giải phẫu bệnh sốc

Sốc là tình trạng suy giảm tuần hoàn cấp làm lưu lượng máu ở mô thiếu hụt, dẫn đến vô oxy tại tế bào. Sốc là một biến chứng tuần hoàn máu có nhiều biểu hiện đa dạng gây những rối loạn mô khác nhau.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối

Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch