- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng
Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng
Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh túi thừa đại tràng
Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi.
Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.
95% túi thừa có ở đại tràng sigma. Các đoạn ruột bị bệnh dễ bị phì đại lớp cơ (50-70% các trường hợp). Các túi thừa có đường kính thường khoảng 0,5-1 cm dọc theo bờ của lớp cơ dọc. Nếu không bị viêm, túi thường có thể co dãn và chứa đầy phân. Túi thừa có thể bị viêm và có thể gây viêm quanh túi thừa rồi lan rộng gây viêm lớp mỡ quanh đại tràng, làm hóa sợi dày vách đại tràng, làm hẹp vách đại tràng (dễ gây nhầm lẫn với ung thư), diễn tiến thành áp xe quanh ruột già, và có thể gây viêm phúc mạc.
Dưới kính hiển vi, túi thừa có vách mỏng với lớp niêm mạc teo đét, dưới lớp niêm bị ép, lớp cơ trơn bị mất hoặc mỏng. Khi có viêm, thì là viêm không đặc hiệu với xơ hóa mạnh vách túi thừa. Cấy vi khuẩn cho thấy nhiều loại, trong đó E. coli chiếm ưu thế.
Bệnh trĩ
Bệnh trĩ là bệnh dãn tĩnh mạch thành túi của mạng tĩnh mạch hậu môn và quanh hậu môn. Đây là loại bệnh rất phổ biến, chiếm tỷ lệ 5% dân số. Bệnh hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi, ngoại trừ ở phụ nữ có thai. Một thống kê ở nước ngoài cho biết có tới hơn 50% số người trên 50 tuổi mắc bệnh trĩ. Ở nước ta, chưa có một cuộc điều tra dịch tễ nào về bệnh này nhưng các thầy thuốc lâm sàng cảm nhận đây là một bệnh phổ biến và tỷ lệ khác nhau về giới tính, về tuổi tác, về nghề nghiệp, cũng như cách sinh hoạt, ăn uống và chế độ công tác của người bệnh.
Bệnh do sự tăng áp lực tĩnh mạch tồn tại lâu dài ở mạng tĩnh mạch trĩ của hậu môn. Có nhiều nguyên nhân làm tăng áp lực này, trong đó 2 nguyên nhân thông thường nhất là tình trạng táo bón và ứ trệ máu tĩnh mạch lúc có thai (lúc có thai có tình trạng sung huyết ở vùng chậu và có sự đè ép của tử cung lên các mạch máu vùng này). Hiếm gặp hơn là tình trạng tăng áp lực tĩnh mạch cửa và khi đó bệnh trĩ là một phần của tuần hoàn bàng hệ.
Phân loại
Tổn thương trĩ có 2 loại:
Trĩ ngoại: Ở ngay sát rìa hậu môn dưới dạng những chỗ phồng lên làm cho da những chỗ này mất nếp, trở nên căng bóng, thường có 3 chỗ phồng (2 ở bên phải và 1 ở bên trái)
Trĩ nội: Có thể không thấy gì khác thường bên ngoài, khi đó có thể yêu cầu bệnh nhân vào nhà vệ sinh rặn mạnh như khi đi cầu, các búi trĩ sẽ sa ra ngoài hậu môn nếu chúng đã đủ to và đã nhiều lần sa ra ngoài. Trong đa số các trường hợp, trĩ nội có 3 búi, cũng ở vị trí của các búi trĩ ngoại (búi phải trước tương ứng với vị trí 11 giờ, búi phải sau tương ứng với vị trí 7 giờ, búi trái tương ứng với vị trí 4 giờ).
Các búi này có thể bằng nhau, nhưng thường thì to nhỏ không đều. Phủ lên các búi trĩ nội là niêm mạc có màu hồng tím. Có thể nhìn thấy các điểm đen, sờ nắn vào thấy cứng cứng, đó là những cục máu đông. Nếu búi trĩ sa ra ngoài thường xuyên thì trên niêm mạc có những chỗ lở loét.
Nếu bệnh nhân đến khám tương đối sớm thì 3 búi trĩ còn phân cách nhau rõ rệt. Muộn hơn, ở giữa 3 búi chính có vài búi phụ nhỏ hơn. Cũng có thể tất cả các búi chính và phụ đã liên kết nhau tạo thành một vòng tròn (Trĩ vòng).
Trường hợp có cả trĩ nội thì lúc đầu trĩ nội và trĩ ngoại phân cách nhau bởi vùng lược vì da vùng này dính vào mặt trong cơ vòng trong, ngăn cách 2 mạng đám rối tĩnh mạch trĩ trên và trĩ dưới. Nhưng về sau, dây chằng Parks bị nhão ra thì vùng lược không còn dính vào mặt trong cơ vòng nữa và trĩ nội thông với trĩ ngoại tạo thành trĩ hỗn hợp.
Phần lớn bệnh nhân đến bệnh viện khi tình trạng bệnh đã nhiều với trĩ vòng hoặc trĩ hỗn hợp. Cần phải xác định chính xác mức độ của trĩ để chọn cách điều trị thích hợp. Người ta chia làm 4 độ bệnh:
Trĩ độ 1: Trĩ ở giai đoạn đầu, các tĩnh mạch dãn nhẹ, đội niêm mạc phồng lên nhưng nằm gọn trong lòng trực tràng.
Trĩ độ 2: Các tĩnh mạch trĩ đã nhiều hơn tạo thành các búi rõ rệt. Khi đi cầu, rặn nhiều, thì các búi thập thò ở lỗ hậu môn. Khi đi cầu xong, đứng dậy thì các búi trĩ lại tụt vào trong không nhìn thấy gì nữa.
Trĩ độ 3: Cứ mỗi lần đi cầu hoặc đi lại nhiều, mỗi khi ngồi xổm, hoặc làm việc nặng thì búi trĩ lại sa ra ngoài. Khi đó, phải dùng tay ấn nhẹ hoặc phải nằm nghỉ một lúc thì búi trĩ mới tụt vào trong
Trĩ độ 4: Các búi trĩ đã khá to, thường thì đã là trĩ vòng, dễ sa ra ngoài, dù đã dùng tay ấn vào. Bệnh nhân có cảm giác là búi trĩ thường xuyên nằm ngoài ống hậu môn.
Sinh bệnh học của bệnh trĩ
Tương đối rõ ràng. Hiện nay, người ta đề cập tới những nguyên nhân như sau:
Tư thế đứng: Trĩ gặp nhiều ở những người phải đứng lâu, phải ngồi nhiều như thư ký bàn giấy, người bán hàng...Một nhận xét khác là không bao giờ người ta thấy xuất hiện trĩ ở động vật 4 chân. Khi nghiên cứu về áp lực tĩnh mạch trĩ, người ta thấy ở tư thế ngồi áp lực là 25 cm nước, ở tư thế đứng áp lực này tăng vọt lên đến 75 cm nước.
Bệnh lỵ và táo bón: Khi đi cầu phải rặn nhiều, khi đó áp lực trong lòng ống hậu môn đã tăng lên gấp 10 lần.
Tăng áp lực trong xoang bụng: Ở những người làm lao động chân tay nặng nhọc, ở những người bị viêm phế quản mạn tính, dãn phế quản, suy tim...áp lực trong xoang bụng thường xuyên tăng và bệnh trĩ dễ xuất hiện hơn người khác.
U hậu môn và vùng chậu: Ung thư trực tràng, u sợi tử cung, thai lớn tháng và các u khác ở vùng hậu môn trực tràng hoặc vùng chậu có thể làm cản trở máu hậu môn trực tràng trở về gây nên trĩ. Đây là các nguyên nhân cụ thể rõ rệt cho nên trĩ ở đây là trĩ triệu chứng, không phải là trĩ bệnh.
Bài viết cùng chuyên mục
Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù
Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.
Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung
Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.
Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày
Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).
Giải phẫu bệnh tụy tạng
Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.
Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung
Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.
Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp
Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.
Tổn thương cơ bản của tế bào và mô
Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.
Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh
Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.
Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương
Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.
Giải phẫu bệnh dương vật
U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.
Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung
Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.
Giải phẫu bệnh của đường mật
Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.
Giải phẫu bệnh viêm tử cung
Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.
Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung
Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn
Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng
Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.
Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối
Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch
Giải phẫu bệnh viêm não màng não
Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.
Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng
Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai
Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.
Giải phẫu bệnh hạch lympho
Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).
Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)
Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R
Sarcom cơ trơn tử cung
Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.
Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh
Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Giải phẫu bệnh u lành tử cung
Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường
Giải phẫu bệnh u phúc mạc
Đó là những khối dạng bọc, to hoặc nhỏ, ở mạc treo ruột hoặc dính vào phúc mạc dọc theo thành bụng. Có thể chẩn đoán nhầm với các u khác trong bụng.