- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày
Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày
Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Là bệnh hay tái phát nhiều lần, thường ở người lớn trung niên và người già. Hiếm khi có ở người trẻ. Bệnh có thể xuất hiện mà không gây ảnh hưởng gì, rồi tự khỏi sau vài tuần đến vài tháng. Nhưng thường, đã mắc bệnh một lần là mắc bệnh suốt đời. Trên các khảo sát tử thiết và theo dõi bệnh nhân, người ta thấy tần suất của bệnh là 6-14% ở đàn ông, 2-6% ở đàn bà. Tỉ lệ bệnh ở đàn ông/đàn bà là 3/1 cho bệnh loét tá tràng và 1,5/1 đến 2/1 cho bệnh loét dạ dày. Đàn bà ở tuổi mãn kinh dễ mắc bệnh hơn. Khoảng nửa thế kỷ trước, loét tá tràng có xuất độ cao hơn hiện nay. Bệnh thường thấy ở các xứ có kỹ nghệ phát triển, và được coi như là một bệnh của nền văn minh.
Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày. Những người thân trực hệ của người bị bệnh dễ mắc bệnh gấp 3 lần người khác.
Loét tá tràng thường có hơn ở nam giới trẻ hoặc trung niên có nhóm máu O. Loét dạ dày thì ở người già, với ưu thế ở người nhóm máu A.
Gần đây, người ta còn nhận thấy mối liên hệ nhân quả giữa sự hiện diện của vi khuẩn Helicobacter pylori với bệnh viêm và loét dạ dày. Khoảng 60-70% bệnh nhân loét dạ dày có H. pylori trong niêm mạc dạ dày.
Sinh bệnh học
Loét tá tràng thường liên quan đến tình trạng căng thẳng thần kinh, lo âu. Các vị trí bị loét là những vị trí chịu ảnh hưởng của dịch vị: dạ dày, tá tràng, phần dưới của thực quản, hổng tràng phần xa của miệng nối dạ dày-ruột non (sau phẫu thuật nối dạ dày-ruột non), các dị tật có chứa niêm mạc dạ dày. Phần màng nhầy không chịu đựng được môi trường acid-pepsin là nơi dễ bị loét. Do đó loét dạ dày thường gặp ở hang vị, hiếm ở tâm vị.
Sự tăng tiết dịch vị và yếu tố xúc động được coi như là nguồn gốc của loét. Niêm mạc dạ dày và tá tràng luôn luôn được che bởi lớp chất nhầy cũng như nhờ sự trung hòa và làm loãng độ acid bởi thức ăn, nước bọt, dịch tràng từ tá tràng. Sự tăng tiết acid hydrochloric ở dạ dày vào ban đêm do thần kinh bị kích thích là nguyên nhân của loét tá tràng. Còn loét dạ dày là do sự ứ đọng thức ăn trong dạ dày không có nhu động làm kích thích sự tăng tiết acid hydrochloric.
Dù vậy, một số ít trường hợp có tình trạng giảm tiết acid, đặc biệt là trong các trường hợp loét ở bờ cong nhỏ dạ dày không kèm theo loét ở tá tràng hay môn vị, là do một số yếu tố như: sự trào ngược của mật, tình trạng viêm dạ dày và sự giảm tiết nhầy của niêm mạc dạ dày có thể làm giảm sự đề kháng tại chỗ đối với acid hydrochloric.
Các yếu tố xúc động làm kích thích thần kinh X qua đường hạ đồi-tiền não thùy-vỏ thượng thận đã ảnh hưởng đến hoạt động của dạ dày. Chất cortisone, có thể gây loét, thường là ở dạ dày, có thể làm loét nặng hơn, xuất huyết, thủng.
Đặc tính giải phẫu bệnh
Ổ loét dạ dày thường có ở thành sau bờ cong nhỏ, cách môn vị khoảng 5cm. Một số ít trường hợp ở tâm vị, 2 bên môn vị (làm khó phân biệt vị trí ở dạ dày hay tá tràng).
Ổ loét tá tràng thường có ở cách môn vị khoảng 1-2cm, ở thành trước hoặc ở thành sau (ít khi ở thành bên).
Ổ loét điển hình thường nhỏ (khoảng 1cm ở tá tràng, 1-2,5cm ở dạ dày) phủ bởi một lớp chất nhầy bóng, có bờ rõ, không gồ cao cách biệt rõ với niêm mạc lành chung quanh. Đôi khi ổ loét to và không đều. Loét dạ dày ác tính thường có hình chén, không được phủ màng nhầy, bờ dốc, gồ cao và cứng, lớp dưới niêm mạc dày.
Dưới kính hiển vi, đáy ổ loét phủ bởi một lớp fibrin có xác bạch cầu đa nhân. Phần trung gian là mô hạt viêm với tương bào, limphô bào, có khi có nhiều bạch cầu đa nhân ưa eosin. Phần dưới là mô sợi xơ dày không mạch máu chiếm hết phần khuyết của lớp cơ trơn. Đôi khi thấy rất rõ các bó thần kinh phì đại, các động mạch thuyên tắc hoặc xơ hoá. Nhiều ổ loét lành và thượng mô mọc lên chỗ loét thành một lớp. Dần dần cấu trúc giống tuyến phát triển nhưng không bao giờ tạo được lớp màng nhầy hoàn toàn như bình thường. Do mô sợi dày, mô cơ cũng không tái tạo nên vết sẹo của ổ loét cũ tồn tại vĩnh viễn.
Biến chứng
Các biến chứng là xuất huyết, thủng và nghẹt môn vị. Các biến chứng này tùy thuộc vị trí ổ loét. Ổ loét của dạ dày và tá tràng đều có thể gây xuất huyết nặng. Ổ loét ở tá tràng thường gây thủng. Bất kỳ ổ loét nào, đặc biệt là ở vách sau, có thể gây xuất huyết với lượng nhỏ, làm đi cầu ra máu.
Các ổ loét ở vách trước tá tràng có thể làm thủng vào xoang phúc mạc gây viêm phúc mạc. Thủng ở vách sau vào tụy tạng có thể gây đau bụng dữ dội, gây viêm phúc mạc khu trú. Chỗ thủng có thể dính vào mạc nối lớn và các cấu trúc lân cận gây viêm. Viêm phúc mạc do thủng ổ loét lúc đầu là viêm do tác nhân hoá học, liền sau đó là do nhiễm khuẩn.
Nghẹt môn vị là biến chứng của ổ loét ở dạ dày hoặc tá tràng gần môn vị, do mô sẹo và tình trạng co thắt. Dạ dày bị phình to và phì đại.
Carcinom hình thành từ một ổ loét có trước rất hiếm khi xảy ra (dưới 1% các trường hợp).
Loét sau phẫu thuật điều trị có thể xảy ra ở miệng nối dạ dày-ruột non hoặc ở phần xa của phần hổng tràng nối với dạ dày. Các ổ loét mới này có thể gây thủng. Có khi lỗ thủng thông và tạo lỗ dò với đại tràng ngang.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh phần mềm
Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.
Sarcom cơ trơn tử cung
Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai
Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.
Giải phẫu bệnh viêm đại tràng
Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn
Tổn thương cơ bản của tế bào và mô
Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.
Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào
Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:
Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung
Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.
Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm
Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và thuốc
Xuất huyết bất thường, và có tác dụng cộng hưởng với progesterone, giúp hạ liều progestin trong viên thuốc ngừa thai.
Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung
Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.
Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày
Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.
Giải phẫu bệnh viêm dạ dày
Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.
Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt
Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết
Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm
Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.
Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh
Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.
Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng
Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.
Lịch sử giải phẫu bệnh
Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.
Giải phẫu bệnh dương vật
U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.
Giải phẫu bệnh viêm lao
Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.
Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm
Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.
Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn
U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.
Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng
Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.
Giải phẫu bệnh hạch lympho
Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).
Giải phẫu bệnh viêm não màng não
Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.
Giải phẫu bệnh u lành phần mềm
Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.