Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày

2012-11-28 07:52 PM

Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Là bệnh hay tái phát nhiều lần, thường ở người lớn trung niên và người già. Hiếm khi có ở người trẻ. Bệnh có thể xuất hiện mà không gây ảnh hưởng gì, rồi tự khỏi sau vài tuần đến vài tháng. Nhưng thường, đã mắc bệnh một lần là mắc bệnh suốt đời. Trên các khảo sát tử thiết và theo dõi bệnh nhân, người ta thấy tần suất của bệnh là 6-14% ở đàn ông, 2-6% ở đàn bà. Tỉ lệ bệnh ở đàn ông/đàn bà là 3/1 cho bệnh loét tá tràng và 1,5/1 đến 2/1 cho bệnh loét dạ dày. Đàn bà ở tuổi mãn kinh dễ mắc bệnh hơn. Khoảng nửa thế kỷ trước, loét tá tràng có xuất độ cao hơn hiện nay. Bệnh thường thấy ở các xứ có kỹ nghệ phát triển, và được coi như là một bệnh của nền văn minh.

Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày. Những người thân trực hệ của người bị bệnh dễ mắc bệnh gấp 3 lần người khác.

Loét tá tràng thường có hơn ở nam giới trẻ hoặc trung niên có nhóm máu O. Loét dạ dày thì ở người già, với ưu thế ở người nhóm máu A.

Gần đây, người ta còn nhận thấy mối liên hệ nhân quả giữa sự hiện diện của vi khuẩn Helicobacter pylori với bệnh viêm và loét dạ dày. Khoảng 60-70% bệnh nhân loét dạ dày có  H. pylori trong niêm mạc dạ dày.

Sinh bệnh học

Loét tá tràng thường liên quan đến tình trạng căng thẳng thần kinh, lo âu. Các vị trí bị loét là những vị trí chịu ảnh hưởng của dịch vị: dạ dày, tá tràng, phần dưới của thực quản, hổng tràng phần xa của miệng nối dạ dày-ruột non (sau phẫu thuật nối dạ dày-ruột non), các dị tật có chứa niêm mạc dạ dày. Phần màng nhầy không chịu đựng được môi trường acid-pepsin là nơi dễ bị loét. Do đó loét dạ dày thường gặp ở hang vị, hiếm ở tâm vị.

Sự tăng tiết dịch vị và yếu tố xúc động được coi như là nguồn gốc của loét. Niêm mạc dạ dày và tá tràng luôn luôn được che bởi lớp chất nhầy cũng như nhờ sự trung hòa và làm loãng độ acid bởi thức ăn, nước bọt, dịch tràng từ tá tràng. Sự tăng tiết acid hydrochloric ở dạ dày vào ban đêm do thần kinh bị kích thích là nguyên nhân của loét tá tràng. Còn loét dạ dày là do sự ứ đọng thức ăn trong dạ dày không có nhu động làm kích thích sự tăng tiết acid hydrochloric.

Dù vậy, một số ít trường hợp có tình trạng giảm tiết acid, đặc biệt là trong các trường hợp loét ở bờ cong nhỏ dạ dày không kèm theo loét ở tá tràng hay môn vị, là do một số yếu tố như: sự trào ngược của mật, tình trạng viêm dạ dày và sự giảm tiết nhầy của niêm mạc dạ dày có thể làm giảm sự đề kháng tại chỗ đối với acid hydrochloric.

Các yếu tố xúc động làm kích thích thần kinh X qua đường hạ đồi-tiền não thùy-vỏ thượng thận đã ảnh hưởng đến hoạt động của dạ dày. Chất cortisone, có thể gây loét, thường là ở dạ dày, có thể làm loét nặng hơn, xuất huyết, thủng.

Đặc tính giải phẫu bệnh

Ổ loét dạ dày thường có ở thành sau bờ cong nhỏ, cách môn vị khoảng 5cm. Một số ít trường hợp ở tâm vị, 2 bên môn vị (làm khó phân biệt vị trí ở dạ dày hay tá tràng).

Ổ loét tá tràng thường có ở cách môn vị khoảng 1-2cm, ở thành trước hoặc ở thành sau (ít khi ở thành bên).

Ổ loét điển hình thường nhỏ (khoảng 1cm ở tá tràng, 1-2,5cm ở dạ dày) phủ bởi một lớp chất nhầy bóng, có bờ rõ, không gồ cao cách biệt rõ với niêm mạc lành chung quanh. Đôi khi ổ loét to và không đều. Loét dạ dày ác tính thường có hình chén, không được phủ màng nhầy, bờ dốc, gồ cao và cứng, lớp dưới niêm mạc dày.

Dưới kính hiển vi, đáy ổ loét phủ bởi một lớp fibrin có xác bạch cầu đa nhân. Phần trung gian là mô hạt viêm với tương bào, limphô bào, có khi có nhiều bạch cầu đa nhân ưa eosin. Phần dưới là mô sợi xơ dày không mạch máu chiếm hết phần khuyết của lớp cơ trơn. Đôi khi thấy rất rõ các bó thần kinh phì đại, các động mạch thuyên tắc hoặc xơ hoá. Nhiều ổ loét lành và thượng mô mọc lên chỗ loét thành một lớp. Dần dần cấu trúc giống tuyến phát triển nhưng không bao giờ tạo được lớp màng nhầy hoàn toàn như bình thường. Do mô sợi dày, mô cơ cũng không tái tạo nên vết sẹo của ổ loét cũ tồn tại vĩnh viễn.

Biến chứng

Các biến chứng là xuất huyết, thủng và nghẹt môn vị. Các biến chứng này tùy thuộc vị trí ổ loét. Ổ loét của dạ dày và tá tràng đều có thể gây xuất huyết nặng. Ổ loét ở tá tràng thường gây thủng. Bất kỳ ổ loét nào, đặc biệt là ở vách sau, có thể gây xuất huyết với lượng nhỏ, làm đi cầu ra máu.

Các ổ loét ở vách trước tá tràng có thể làm thủng vào xoang phúc mạc gây viêm phúc mạc. Thủng ở vách sau vào tụy tạng có thể gây đau bụng dữ dội, gây viêm phúc mạc khu trú. Chỗ thủng có thể dính vào mạc nối lớn và các cấu trúc lân cận gây viêm. Viêm phúc mạc do thủng ổ loét lúc đầu là viêm do tác nhân hoá học, liền sau đó là do nhiễm khuẩn.

Nghẹt môn vị là biến chứng của ổ loét ở dạ dày hoặc tá tràng gần môn vị, do mô sẹo và tình trạng co thắt. Dạ dày bị phình to và phì đại.

Carcinom hình thành từ một ổ loét có trước rất hiếm khi xảy ra (dưới 1% các trường hợp).

Loét sau phẫu thuật điều trị có thể xảy ra ở miệng nối dạ dày-ruột non hoặc ở phần xa của phần hổng tràng nối với dạ dày. Các ổ loét mới này có thể gây thủng. Có khi lỗ thủng thông và tạo lỗ dò với đại tràng ngang.

Bài viết cùng chuyên mục

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú

Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh viêm giang mai

Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh

Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.

Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh của đường mật

Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.

Giải phẫu bệnh tuyến giáp

U giả, được hình thành do sự tồn tại của mô ống giáp-lưỡi, tiến triển rất chậm, 1/3 trường hợp có từ lúc mới sinh, 2/3 trường hợp chỉ xuất hiện khi bệnh nhân lớn.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung

Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn

Giải phẫu bệnh ung thư gan

Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh viêm lao

Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.

Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng

Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.

Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm

Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.

Giải phẫu bệnh của gan

Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp

Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi

Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL