- Trang chủ
- Sách y học
- Bệnh học ngoại khoa
- Hội chứng Dumping trong phẫu thuật dạ dày
Hội chứng Dumping trong phẫu thuật dạ dày
Hội chứng Dumping là một nhóm các triệu chứng có thể xảy ra nếu bn có phẫu thuật để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần của dạ dày, hoặc nếu dạ dày của bệnh nhân đã được phẫu thuật nối tắt để giúp giảm cân.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đại cương
Hội chứng Dumping là một nhóm các triệu chứng có thể xảy ra nếu bn có phẫu thuật để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần của dạ dày, hoặc nếu dạ dày của bệnh nhân đã được phẫu thuật nối tắt để giúp giảm cân. Hội chứng này còn được gọi là hội chứng dạ dày rỗng nhanh chóng, xảy ra khi các phần chưa được tiêu hóa trong dạ dày của bạn được vận chuyển hoặc “đổ” vào ruột non quá nhanh. Các triệu chứng thường gặp bao gồm đau bụng và buồn nôn.
Hầu hết những người mắc hội chứng Dumping xuất hiện các triệu chứng ngay sau khi ăn. Trong một số trường hợp khác, các triệu chứng có thể xảy ra 1-3 giờ sau khi ăn. Trong cả hai trường hợp, các triệu chứng có thể đi từ nhẹ đến nặng.
Hội chứng Dumping thường được cải thiện mà không cần điều trị y tế hoặc sau khi điều chỉnh chế độ ăn uống của bạn. Trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, bạn có thể cần dùng thuốc hoặc phẫu thuật.
Triệu chứng
Các triệu chứng sớm
Thường xảy ra trong bữa ăn hoặc trong vòng 15-30 phút sau bữa ăn. Các triệu chứng sớm xảy ra do các loại thực phẩm có lượng đường cao đi từ dạ dày vào ruột non quá nhanh chóng. Bởi vì thực phẩm rất cô đặc, nó thu hút một lượng lớn chất lỏng tương ứng vào ruột làm cho ruột bị kéo căng và đau. Các triệu chứng sớm của hội chứng Dumping bao gồm:
Buồn nôn.
Ói mửa.
Đau bụng.
Tiêu chảy.
Chóng mặt, hoa mắt.
Đầy hơi, ợ hơi.
Mệt mỏi.
Đánh trống ngực, nhịp tim nhanh.
Các triệu chứng muộn
Thường xảy ra 1-3 giờ sau khi ăn. Các triệu chứng muộn được gây ra bởi những thay đổi đáng kể lượng đường trong máu. Khi đường được ăn, chúng được hấp thu nhanh vào máu gây ra sự gia tăng nhanh chóng lượng đường trong máu. Tuyến tụy phản ứng lại bằng cách tiết ra một số lượng lớn đồng đều insulin để hấp thụ lượng đường trong máu dư thừa này. Tuy nhiên, đôi khi tuyến tụy sản xuất insulin quá nhiều, dẫn đến hạ đường huyết. Các triệu chứng muộn của hội chứng Dumping bao gồm:
Đổ mồ hôi.
Yếu, mệt mỏi.
Chóng mặt, hoa mắt.
Run rẩy.
Cảm giác căng thẳng, lo âu.
Đánh trống ngực, nhịp tim nhanh.
Ngất xỉu.
Rối loạn tâm thần.
Tiêu chảy.
Hạ đường huyết.
Một số người gặp cả hai triệu chứng sớm và muộn. Các trạng thái như chóng mặt và tim đập nhanh có thể xảy ra hoặc sớm hoặc muộn – hoặc cả hai. Không có vấn đề gì khi các trịệu chứng gia tăng, tuy nhiên, chúng có thể trở nên tồi tệ hơn sau một bữa ăn có hàm lượng đường cao, đặc biệt là giàu sucrose hoặc fructose.
Một số người gặp phải triệu chứng hạ đường huyết, do mức insulin máu tăng, như là một phần của hội chứng. Hạ đường huyết thường xuất hiện hơn trong các triệu chứng muộn. Insulin tác động đến các mô nhằm giảm lượng đường trong máu của bệnh nhân.
Nguyên nhân
Trong hội chứng Dumping, thức ăn và dịch dạ dày di chuyển từ dạ dày xuống ruột non của bạn nhanh chóng một cách bất thường và không được kiểm soát. Quá trình này thường liên quan đến những thay đổi trong dạ dày do phẫu thuật. Ví dụ, khi cánh cửa (môn vị) giữa dạ dày và phần đầu của ruột non (tá tràng) đã bị hư hại hoặc cắt bỏ trong phẫu thuật, hội chứng Dumping có thể xảy ra.
Hội chứng Dumping có thể xảy ra 1 cách êm dịu trong ít nhất một phần tư đến một nửa những người đã phẫu thuật dạ dày. Hội chứng này xảy ra phổ biến nhất trong vòng vài tuần sau khi phẫu thuật, hoặc ngay sau khi bạn quay trở lại chế độ ăn uống bình thường của bạn. Càng nhiều phần của dạ dày bị cắt bỏ hoặc nối tắt, càng nhiều khả năng là tình trạng sẽ xảy ra nghiêm trọng. Nó đôi khi trở thành một rối loạn mãn tính.
Các hormon dạ dày – ruột cũng được cho là đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này.
Các yếu tố nguy cơ
Một số loại phẫu thuật dạ dày làm tăng nguy cơ của hội chứng Dumping, bao gồm:
Cắt dạ dày, trong đó một phần hoặc toàn bộ dạ dày của bn bị loại bỏ. Thường bao gồm loại bỏ cả môn vị.
Phẫu thuật nối vị-tràng, trong đó dạ dày của bn được phẫu thuật kết nối trực tiếp vào ruột non. Các bác sĩ đôi khi thực hiện phẫu thuật này ở những người mắc bệnh ung thư dạ dày.
Minh họa phẫu thuật nối vị tràng (từ trái sang: nối Billroth I kiểu PEAN, nối Billroth II kiểu FINSTERER, nối trực tiếp hỗng tràng – thực quản trong phẫu thuật cắt toàn bộ dạ dày)
Phẫu thuật cắt thần kinh phế vị, trong đó các dây thần kinh đến dạ dày của bn được cắt để giảm lượng acid sản xuất bởi dạ dày.
Phẫu thuật Fundoplication, là phẫu thuật đôi khi được thực hiện trên những người bị bệnh trào ngược dạ dày. Phẫu thuật viên bọc phần trên của dạ dày xung quanh phần thấp của thực quản để tạo áp lực nhằm giảm sự trào ngược từ dạ dày lên thực quản. Tuy nhiên, trong những trường hợp hiếm hoi, một số dây thần kinh đến dạ dày vô tình bị tổn thương trong quá trình phẫu thuật, dẫn đến hội chứng Dumping.
Phẫu thuật nối tắt dạ dày, được thực hiện để điều trị bệnh béo phì. Phẫu thuật tạo ra một túi dạ dày nhỏ hơn so với toàn bộ dạ dày, có nghĩa là bn không còn có thể ăn nhiều như trước, kết quả là bn sẽ giảm cân.
Một số bệnh và các loại thuốc này cũng có thể làm cho bạn dễ bị hội chứng Dumping. Chúng bao gồm:
Bệnh tiểu đường.
Hội chứng nôn chu kỳ (CVS).
Hội chứng Zollinger-Ellison, gây loét dạ dày nghiêm trọng.
Metoclopramide (REGLAN), đôi khi được kê đơn để giảm bớt buồn nôn, nôn mửa và ợ nóng.
Biến chứng
Ở những người mắc các trường hợp nghiêm trọng của hội chứng Dumping, giảm cân và suy dinh dưỡng có thể xảy ra. Đôi khi những người bị mất trọng lượng nhiều cũng có thể dần dần sợ ăn, điều này có liên quan đến sự khó chịu do thức ăn chưa tiêu đi xuống nhanh chóng. Họ có thể cũng tránh các hoạt động thể chất ngoài trời để dễ dàng ở gần một nhà vệ sinh(?). Một số gặp khó khăn trong công việc vì các triệu chứng mãn tính của họ.
Điều trị nội khoa
Mục đích của việc dùng thuốc là giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh và giảm thiểu các biến chứng.
Thuốc giảm glucose huyết: tác dụng với giai đoạn muộn.
Acarbose (Precose, Prandase): bản chất là chất ức chế alpha-glycoside hydrolase, tác dụng:
Làm giảm đường huyết với cơ chế ức chế hấp thu Glucose ở đường tiêu hóa.
Giảm tỷ lệ tăng đường huyết sau ăn.
Giảm tiêu chảy thứ phát do lên men các cacbohydrat không hấp thu được.
Thuốc chống bài tiết: giảm tỷ lệ mắc.
Somatostatin (Octreotide): tác động lên receptor dưới type II và V của somatostatin làm:
Giảm bài tiết GH, cũng như hạn chế các yếu tố nội tiết hay không phải nội tiết của đường tiêu hóa: glucagon, VIP (vasopressin intestinal peptide) và các peptide khác.
Trì hoãn quá trình tháo rỗng dạ dày ban đầu.
Làm chậm nhu động ruột.
Ức chế giải phóng insulin.
Co mạch tạng và ức chế giãn mạch tạng sau ăn.
Điều trị phẫu thuật
Cần xác định chính xác thủ thuật trong phẫu thuật gây ra Hội chứng:
Tái cấu trúc dạ dày:
Mục đích: làm chậm tháo rỗng dạ dày.
Phương pháp: làm hẹp lỗ nối dạ dày – hỗng tràng.
Nhược điểm: khó xác định chính xác kích thước lỗ cần đạt. Tắc nghẽn đường ra từ dạ dày cũng hay gặp.
Chuyển dạng Billroth II thành Billroth I:
Khôi phục quá trình lưu thong sinh lý của thức ăn từ dạ dày mà không có nguy cơ gâp hẹp tắc đường ra của dạ dày.
Thủ thuật đơn giản và giảm tỷ lệ biến chứng.
Tạo hình môn vị: tạo sẹo và khâu dọc suốt chiều dài môn vị.
Cản trở trong hỗng tràng bằng Schoemaker: đặt vào quai hỗng tràng sao cho phù hợp với nhu động (??), tuy nhiên có thể gây trợt loét và chit hẹp quai đó.
Chuyển đổi Roux-en-Y: tác dụng nhờ sự gián đoạn nhu động, cản trở nhu động hỗng tràng cũng như các phản nhu động.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh học ngoại teo đướng mật bẩm sinh
Teo đường mật bẩm sinh rất hiếm gặp. Tại Nhật Bản và các nước châu á, tỷ lệ bệnh khoảng 1/10.000 trẻ sơ sinh sống. Tỷ lệ nữ/nam = 1:0,64. Vấn đề chẩn đoán và điều trị rất phức tạp.
Bệnh học ngoại lồng ruột cấp ở trẻ còn bú
Lồng ruột thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn ở bé gái (2/1) trong độ tuổi bú mẹ cao nhất là từ 4 - 8 tháng. Tỷ lệ gặp thấp hơn sau 1 - 2 tuổi và hiếm gặp ở trẻ lớn.
Bệnh học ngoại chấn thương niệu đạo
Khi dương vật mềm, niệu đạo dài khoảng 16cm, trong đó, đoạn tiền liệt tuyến dài khoảng 2,5-3cm, đoạn màng khoảng 1,2cm và đoạn xốp khoảng 12cm.
Bệnh học ngoại gẫy xương hở
Gãy xương hở do nhiều nguyên nhân và chiếm hàng đầu là tai nạn lưu thông do các loại xe mô tô và ô tô. Trong thời bình tỷ lệ gãy xương hở chiếm khoảng 8-10% các tổn thương cơ quan vận động.
Bệnh học ngoại u xương
Ung thư xương là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào của xương, trong đó hay gặp nhất là ung thư liên kết tạo xương và tạo sụn. Đây là loại ung thư thường gặp ở thiếu niên và thanh niên trẻ.
Phẫu thuật điều trị bỏng
Khớp lớn của chi bị nhiễm trùng nặng do bỏng, là nguốn gốc của nhiễm trùng toàn thân, không thể sử dụng phẫu thuật mở bao khớp, dẫn lưu hay cắt đoạn.
Bệnh học ngoại u trung thất
U trung thất là một khối u có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của trung thất. Bao gồm khối u nguyên phát, thứ phát; lành ác. Bệnh lý hay gặp nhất là u tuyến ức, u thần kinh, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới.
Bệnh học ngoại gãy thân xương cánh tay
Gãy giữa chỗ bám của cơ ngực lớn và chỗ bám của cơ delta: Đầu trên khép (do cơ ngực lớn kéo), đầu dưới di lệch lên và ra ngoài (do cơ delta kéo).
Bệnh học ngoại trật khớp háng
Ở người lớn trật khớp háng do chấn thương mạnh xảy ra do một lực tác động gián tiếp vào đầu dưới xương đùi, và vùng gối khi đùi gấp, xoay trong và khép, khớp gối ở tư thế gấp.
Thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng
Khám vết bỏng hàng ngày là công việc thường xuyên của bác sỹ điều trị bỏng để bổ xung chẩn đoán độ sâu của bỏng và chỉ định thuốc điều trị tại chỗ và toàn thân phù hợp.
Bệnh học ngoại khoa thoát vị đùi
Khi lỗ thoát vị đùi ở vị trí này phải chú ý: Phía ngoài cổ túi có tĩnh mạch đùi và phía trên cổ túi có động mạch thượng vị và nhánh nối động mạch thượng vị với mạch bịt.
Bệnh học ngoại viêm màng ngoài tim co thắt
Viêm màng ngoài tim co thắt có tràn dịch (1/3 trường hợp): Bệnh nhân trẻ, triệu chứng xuất hiện mới đây, tiền sử viêm màng ngoài tim do nhiễm khuẩn cấp.
Bệnh học ngoại ung thư bàng quang
U bàng quang là loại u thường gặp nhất trong các loại u đường tiết niệu. Theo Hội ung thư Mỹ, thì năm 1994 có khoảng 51.200 bệnh nhân mới, và đã có khoảng 10.600 bệnh nhân tử vong.
Bệnh học ngoại khoa bỏng
Bỏng là một chấn thương gặp trong cả thời bình và thời chiến. Trong chiến tranh tỷ lệ bỏng chiếm từ 3-10% tổng số người bị thương. Ở Mỹ một năm theo báo cáo có hơn 2 triệu người bị bỏng, trong đó khoảng 100.000 người phải nhập viện
Bệnh học ngoại khoa ung thư gan
Ung thư gan nguyên phát ở các nước Âu - Mỹ rất hiếm gặp chiếm khoảng 1-2% các loại ung thư. Trong khi châu á, Phi rất hay gặp. Đây là loại ung thư tiến triển rất nhanh và điều trị đang còn gặp nhiều khó khăn.
Công tác thay băng điều trị bỏng
Tuỳ theo tình trạng của vết thương, nếu vết thương diện rộng, nhiều dịch mủ, thay băng hàng ngày, nếu diện hẹp, ít mủ thay băng hai ngày một lần 2. kỹ thuật thay băng.
Bệnh học ngoại khoa viêm ruột thừa cấp
Viêm ruột thừa cấp là một trong những bệnh lý cấp cứu ngoại khoa hay gặp nhất. Tần suất viêm ruột thừa cấp song hành với tần suất của quá trình phát triển của mô bạch huyết, với tỷ lệ cao nhất ở giai đoạn đầu của thập niên.
Bệnh học ngoại ống phúc tinh mạc
Sự tồn tại của ống phúc tinh mạc là một loại bệnh lý rất thường gặp ở trẻ em mà bệnh cảnh lâm sàng thường biểu hiện bằng hai hình thái: Hình thái cấp tính đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật như thoát vị bẹn.
Bệnh học ngoại tắc động mạch cấp tính ở chi
Mảng xơ vữa bị loét: Các mảng xơ vữa này sau đó bị cục máu đông phủ lên trên, sự di chuyển của các cục huyết khối có thể tạo ra từng đợt gây thuyên tắc.
Bệnh học ngoại xơ vữa động mạch
Tổn thương khu trú ở lớp nội mạc, lớp nội mạc dày lên vừa phải. Các tế bào đặc trưng có chứa các tổ chức mỡ (tế bào bọt). Lớp áo giữa và áo ngoài bình thường.
Bỏng chiến tranh
Khi cháy tạo ra sức nóng cao, cháy lâu, có chất khi cháy tạo ra nhiều chất độc cho cơ thể, có chất gây bỏng đồng thời là chất độc cho cơ thể.
Bệnh học ngoại khoa thoát vị bẹn
Thoát vị là tình trạng các tạng bên trong ổ phúc mạc đi ra ngoài ổ phúc mạc trong một túi thừa phúc mạc gọi là “túi thoát vị”, qua các điểm yếu tự nhiên của thành bụng. Các điểm yếu này có thể là bẩm sinh hay mắc phải.
Bệnh học ngoại gẫy xương cẳng chân
Gãy xương cẳng chân là các trường hợp gãy thân xương chày từ dưới hai lồi cầu đến trên mắt cá trong, có hoặc không kèm gãy xương mác từ cổ tới trên mắt cá ngoài.
Xử trí thời kỳ đầu vết thương bỏng
Ngâm vùng bỏng vào nước lạnh (16-200C) trong vòng 20-30 phút. Đặc biệt có hiệu quả trong 20 phút đầu, nếu để sau 30 phút mới ngâm nước lạnh thì không còn giá trị nữa.
Bệnh học ngoại phình đại tràng bẩm sinh (Hirschsprung)
Bệnh Hirschsprung có thể có biểu hiện lâm sàng rất sớm ở trẻ sơ sinh bằng bệnh cảnh tắc ruột cấp tính dễ đưa đến tử vong nếu không can thiệp kịp thời hoặc có biểu hiện bán cấp tính và mạn tính ở trẻ nhũ nhi.