Bệnh học ngoại dị dạng bẩm sinh vùng rốn

2012-10-18 12:23 PM

Thoát vị cuống rốn là một dị dạng bẩm sinh trong đó một số tạng bụng trồi ra ngoài ổ bụng qua lỗ hổng của vành đai rốn tạo thành một khối phình được bọc kín bởi lớp phúc mạc nguyên thuỷ và lớp màng ối ở vùng rốn.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đại cương

Thoát vị cuống rốn là một dị dạng bẩm sinh trong đó một số tạng bụng trồi ra ngoài ổ bụng qua lỗ hổng của vành đai rốn tạo thành một khối phình được bọc kín bởi lớp phúc mạc nguyên thuỷ và lớp màng ối ở vùng rốn.

Dị dạng được gọi bằng nhiều tên khác nhau và cũng chưa thống nhất với nhau về tên gọi nên trong phần lớn y văn đều được dùng chung dưới một danh từ là Omphalocèle.

Đây là một dị tật  tương đối ít gặp với tần suất khoảng 1/5.000 - 1/10.000 trường hợp sinh. Ngày nay với sự tiến bộ trong phẫu thuật và gây mê hồi  sức nhi, nhiều trường hợp bệnh nặng đã được cứu sống ngay cả đối với những thể thoát vị cuống rốn khổng lồ.

Phôi thai học

Ruột nguyên thuỷ bắt đầu quay từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 10 của thai kỳ:  Do ruột giữa phát triển nhanh trong lúc khoang bụng lại phát triển chậm nên không đủ chổ để chứa, lúc đó các quai ruột sẽ thoát vị qua vòng đai rốn để ra ngoài tạo thành hiện tượng thoát vị sinh lý. Từ tuần lễ thứ 11 đến 12 trở đi, ruột tiếp tục quay và đi dần vào lại, khoang bụng lúc này phát triển rộng hơn và vòng đai rốn từ từ khép lại chỉ còn lại dây rốn đi qua. Nếu vì một lý do nào đó mà thành bụng ngừng phát triển và vòng đai rốn không khép lại, ruột sẽ ngưng lại bên ngoài ổ bụng cho đến ngày sinh mà không được da che  phủ, trường hợp này được gọi là thoát vị cuống rốn.

Như vậy có thể nói rằng thoát vị cuống rốn là sự tồn tại sau sinh của thoát vị sinh lý từ thời kỳ bào thai.

Chẩn đoán trước sinh

Chủ yếu dựa vào siêu âm bào thai. Siêu âm có thể cho hình ảnh chính xác của khối thoát vị đo được đường kính của khối để có tiên lượng ban đầu cho hướng xử trí về sau và đồng thời cũng phát hiện được các dị tật phối hợp.

Chẩn đoán sau sinh

Chẩn đoán

Chẩn đoán dễ dàng sau sinh bằng sự xuất hiện một khối bất thường vùng rốn với các đặc điểm:

Khối bất thường nằm ngay vùng giữa rốn đường kính thay đổi từ vài cm cho đến lớn bằng đầu của đứa bé.

Thành bụng phát triển ngừng lại quanh chân của khối, chỉ còn lại một lớp màng túi mỏng phủ lên khối, qua lớp màng này có thể thấy các quai ruột hoặc gan ở bên dưới.

Da ngừng phát triển quanh chân khối và tạo thành một đường viền tròn theo chu vi của chân cuống rốn.

Cuống rốn nằm ở giữa khối ngay trên đỉnh hoặc cực dưới của khối.

Khám lâm sàng

Sờ nắn khối phình để kiểm tra các tạng ở bên dưới như gan, lách hoặc các quai ruột. Kiểm tra tình trạng dính của các tạng vào màng túi, đồng thời ấn thử khối vào bên trong để tiên lượng sự tương hợp giữa thể tích của khối thoát vị và thể tích ổ bụng.

X quang và siêu âm

Giúp đánh giá tình trạng các tạng trong ổ phúc mạc, phát hiện các dị tật khác kèm theo như tắc ruột sơ sinh, tắc tá tràng .

Các dị tật phối hợp

Khoảng 50 - 70% dị tật thoát vị cuống rốn có kèm theo các dị tật khác phối hợp. Trong đa số các dị tật này không đòi hỏi phải can thiệp cấp cứu như sứt môi, hở hàm ếch, lộ bàng  quang... Tuy nhiên, cũng có trường hợp phải can thiệp cấp cứu như: teo thực quản, teo ruột... Thường chính các dị tật phối hợp này sẽ làm cho tiên lượng của bệnh càng nặng nề hơn nhất là bệnh thường hay xảy ra trên cơ địa của những trẻ đẻ non, thiếu tháng, thiếu cân...

Điều trị tổng quát

Băng ẩm màng túi thoát vị với dung dịch nước muối sinh lý. Dưới sự bảo vệ  của băng ẩm, màng túi sẽ được bảo vệ chống nhiễm  trùng, chống va chạm gây tổn thương và chống mất dịch, mất nhiệt  ở trẻ sơ sinh.

Đặt sonde dạ dày để ngăn ngừa tình trạng trướng dạ dày và ruột, làm giảm thể tích của ruột ở trong khối thoát vị và trong ổ bụng.

Kích thích hoặc thụt đại tràng qua đường hậu môn để tháo phân su.  Với động tác này sẽ đào thải một lượng phân su khoảng từ 150 - 180ml.

Kháng sinh được dùng từ đầu với loại có kháng khuẩn phổ rộng để chống và ngăn ngừa nhiễm trùng.

Cung cấp năng lượng và dịch điện giải với số lượng khoảng 140 - 160ml/ kg/24 giờ bằng đường tĩnh mạch.

Cho thêm vitamin K và truyền máu trong mổ nếu cần thiết.

Điều trị phẫu thuật

Chỉ định

Tùy thuộc vào  thời gian vào viện, kích thước của khối thoát vị và biến chứng vỡ màng túi thoát vị.

Thời gian: Nên phẫu thuật càng sớm càng tốt vì lý do màng túi chỉ bảo vệ khối thoát vị trong vòng 12 – 24 giờ đầu sau sinh, sau thời gian này biến chứng hoại tử, nhiễm trùng và thủng màng túi thoát vị dễ xảy ra và đưa lại kết quả xấu cho phẫu thuật.

Kích thước của khối thoát vị: Dựa vào khả năng phục hồi thành bụng người ta chia thoát vị cuống rốn thành 3 nhóm chính:

Nhóm I: Khối thoát vị có đường kính < 5 cm.

Nhóm II: Khối thoát vị có đường kính từ 5 - 8 cm.

Nhóm III: Khối thoát vị có đường kính > 8cm.

Ở các trẻ sơ sinh thuộc nhóm I: Thành bụng và khoang bụng đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, khá đủ chổ cho khối thoát vị do đó có thể đưa khối vào ổ bụng mà không gây chèn ép và có thể phục hồi thành bụng một thì.

Ở các trẻ sơ sinh thuộc nhóm II: Cũng có chỉ định phẫu thuật phục hồi thành bụng một thì, tuy nhiên do tình trạng ổ bụng chưa phát triển đầy đủ nên khi  đưa khối thoát vị vào ổ bụng phải theo dõi  sát các biến chứng do chèn ép. Nếu có xuất hiện dấu hiệu thiểu năng tuần hoàn và hô hấp sau phục hồi thành bụng một thì thì phải chuyển ngay qua phương pháp phục hồi thành bụng 2 thì.

Ở trẻ sơ sinh nhóm III: Phẫu thuật thường gặp nhiều khó khăn do ổ bụng chưa phát triển đầy đủ trong lúc thể tích khối thoát vị lại quá to, do đó nếu cố gắng làm thì sẽ xảy ra tai biến do chèn ép như:

Rối loạn hô hấp do chèn ép cơ hoành và các tạng trong trung thất.

Chèn ép tĩnh mạch chủ dưới gây cản trở tuần hoàn  trở về.

Nghẹt ruột và các tạng tiêu hoá.

Những tai biến này cuối cùng dẫn đến tử vong sau phẫu thuật. Do đó, đối với nhóm này các phẫu thuật viên thường chọn phương pháp phục hồi thành bụng hai thì hoặc các phương pháp bảo tồn khác.

Biến chứng vỡ màng túi thoát vị hoặc nhiễm trùng phúc mạc: Cần phải mổ cấp cứu khẩn để giải quyết tình trạng viêm phúc mạc và phục hồi thành bụng. Ở đây tiên lượng thường khá nặng nề và tử vong cao do tình trạng  viêm phúc mạc kết  hợp với tình trạng thất bại trong phục hồi thành bụng do nhiễm trùng.

Kỹ thuật mổ

Phương pháp phục hồi thành bụng một thì: được áp dụng trong nhóm 1 và một số trường hợp của nhóm 2. Kỹ thuật mổ thường đơn giản bao gồm bóc tách lớp da, cơ ngay chân của túi thoát vị sau khi đã thắt động mạch và tĩnh mạch rốn. Mở màng túi, giải phóng ruột nếu có dính, kiểm tra các dị tật khác của tiêu hoá, đưa ruột vào ổ bụng nhẹ nhàng và đóng thành bụng.

Phương pháp phục hồi thành bụng 2 thì: Mục đích để ngăn ngừa các tai biến do chèn ép khi phục hồi thành bụng.

Phương  pháp Gross: Rạch quanh khối thoát vị bóc tách lớp cơ và da đủ rộng để phủ lên khối thoát vị chỉ chừa lại lớp cân và màng túi. Phương pháp này có các ưu điểm sau:

Do có màng túi che chở nên ổ bụng chống đỡ được tình trạng nhiễm trùng và dính ruột sau mổ.

Nội tạng không bị chèn ép nên tránh được các tai biến về hô hấp và tuần hoàn. Sau khi mổ xong đứa trẻ sẽ có một khối xổ thành bụng ở vùng rốn, tuy nhiên vẫn thích nghi được.

Thì 2 của phẫu thuật phục hồi  thành bụng sẽ tiến hành sau một năm khi ổ  bụng đã tăng thể tích và phát triển  bình  thường. Bên cạnh ưu điểm phương pháp này cũng có một số hạn chế như:

Do để lại lớp màng túi nên một số trường hợp nhiễm trùng từ màng túi lan ra gây nhiễm trùng và bục lại  vết mổ nhất là ở những bệnh nhi đến muộn sau 24 giờ.

Do kéo da quá căng nên xảy ra tình trạng thiếu dưỡng và hoại tử da. Để   tránh biến chứng này  Bairov khuyên nên xẻ thêm vài đường rạch phụ trên vạt da để vừa giảm căng và giúp thoát dịch ứ đọng.

Phương pháp dùng mảnh ghép (silo): Phương pháp này được Schuster giới thiệu từ năm 1947.

Lúc đầu người ta dùng mảnh ghép chất  dẻo  bằng teflon, sau này  thay thế bằng chất dẻo silon hay silastic silo. Hai mảnh silon được khâu vào hai bờ  cơ quanh chân khối thoát vị rồi khâu chập dính ở hai bờ trên. Sau 5-10 ngày khối phồng tụt thấp dần làm hai mảnh silon trở nên lỏng lẻo. Người ta khâu tiếp đường khâu thứ hai để thắt chặt túi và cắt  bỏ phần ở trên, cứ tiếp tục  cho đến khi khối thoát vị vào hẳn trong ổ bụng người ta mới tiến hành phục hồi thành bụng. Với phương pháp này có thể rút ngắn được thời gian so với kỹ thuật mổ hai thì.

Phương pháp băng ép áp lực từ bên ngoài: Với phương pháp này, Barlow và cộng sự đã áp dụng được cho những khối thoát vị có đường kính > 10cm.

Đứa trẻ được xông dạ dày hút liên tục để làm giảm trướng bụng do hơi dịch trong dạ dày và ruột kết hợp với việc giúp đào thải phân su ứ đọng ở trong đại tràng. Khối thoát vị được băng ép bằng loại băng đàn hồi và đỉnh của  khối được treo để giữ cho toàn bộ khối cố định ngay trên vòng rốn của bệnh nhi. Theo chiều của trọng lực khối sẽ vào ổ bụng dần làm cho dây treo và băng lỏng đi trong ngày hôm sau và người ta sẽ tiến hành băng ép lại hằng ngày.  Trong vòng 5-7 ngày khối sẽ vào hẳn trong ổ bụng và lúc đó người ta sẽ tiến hành phục hồi thành bụng một thì.

Phương pháp này có nhiều ưu điểm hơn phương pháp silo. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cần phải theo dõi áp lực ổ bụng liên tục để tránh biến chứng chèn ép và đồng thời phải thực hiện dưới  gây mê toàn thân và thở máy nên chỉ được thực hiện ở các trung tâm lớn có điều kiện về phẫu thuật sơ sinh.

Các phương pháp điều trị bảo tồn

Đối với các khối thoát vị quá lớn hoặc nếu ở những trung tâm không có

điều kiện để phẫu thuật người ta có  thể  áp  dụng phương pháp điều trị nội khoa bảo tồn sau:

Phương pháp Grob

Nguyên tắc của phương  pháp này là giữ ẩm màng túi thoát vị và chống nhiễm khuẩn bằng cách chăm sóc và bôi thuốc đỏ 2% và băng vô khuẩn hàng ngày và chờ đợi cho tổ chức hạt và da phủ kín toàn bộ khối thoát vị. Vấn đề phục hồi thành bụng sẽ được thực hiện về sau tùy theo từng trường hợp.

Nhược điểm của phương pháp này là thời gian điều trị kéo rất dài, phải nằm bệnh viện để theo dõi sát diễn biến và can thiệp khi có tai biến xảy ra.

Che phủ khối thoát vị bằng màng sinh học

Màng ối được chọn lựa làm  màng sinh học để phủ lên khối thoát vị giúp che  phủ chống nhiễm khuẩn và kích thích tổ chức hạt phát triển nhanh.

Che phủ bằng màng tổng hợp (polymer)

Màng Opsite thường được chọn để che phủ và tái tạo lại màng túi thoát vị như các màng sinh học.

Kết quả và tiên lượng

Trước khi các phương pháp điều trị bảo tồn được áp dụng thì tỷ lệ tử vong  chung của các thoát vị cuốn rốn rất cao khoảng 30-70%. Tiên lượng rất xấu  đối với thoát vị to, đến muộn và có biến chứng. Ngày nay, nhờ sự tiến bộ trong gây mê và phẫu thuật ở trẻ sơ sinh nên đã làm giảm đáng kể các tai biến và biến chứng của phẫu thuật, góp  phần làm giảm tỷ lệ tử vong của  phẫu thuật xuống dưới 20%.

Kết quả của các phương pháp  điều trị bảo tồn cho phép các tác giả mở rộng chỉ định và thành công trong các trường hợp mà trước đây phẫu thuật thường cho những kết quả không chắc chắn đã mang lại một triển vọng tốt đẹp cho việc điều trị thoát vị cuống rốn bẩm sinh ở trẻ em.

Bài viết cùng chuyên mục

Lâm sàng và điều trị thời kỳ suy mòn của bệnh bỏng

Nếu tính cả thải Protein qua phân, nước tiểu... mất Protein có thể đạt tới 100-200g/24h. Bỏng sâu mất Protein qua vết bỏng đạt 10mg/cm2/24h.

Công tác thay băng điều trị bỏng

Tuỳ theo tình trạng của vết thương, nếu vết thương diện rộng, nhiều dịch mủ, thay băng hàng ngày, nếu diện hẹp, ít mủ thay băng  hai ngày một lần 2. kỹ thuật thay băng.

Bệnh học bỏng trẻ em

Tính diện tích bỏng dựa theo bảng của Lund và Browder hoặc của Berkow chia bề mặt các phần cơ thể thành các đơn vị diện tích phù hợp với tuổi nhằm giúp chẩn đoán chính xác diện tích bỏng.

Bệnh học bỏng hóa chất

Trong quân đội và trong chiến tranh còn bị bỏng do các nhiên liệu lỏng của tên lửa và các hoá chất quân sự gây loét rộp da. Một số hoá chất khi tác dụng trên da và niêm mạc còn ngấm theo đường mạch máu vào cơ thể và có thể dẫn tới tử vong.

Bệnh học bỏng điện

Bỏng điện thường sâu, tổn thương tại chỗ biểu hiện ở điểm vào và ra của luồng điện, vị trí thường gặp là bàn tay, bàn chân. ở trẻ em có thể bỏng miệng, môi, lưỡi do ngậm vào cực điện.

Dấu hiệu triệu chứng lâm sàng sốc bỏng

Do thoát dịch, huyết tương từ lòng mạch ra khoảng gian bào, Nguyên nhân do tổn thương mao mạch, rối loạn vi tuần hoàn gây giãn mạch, tăng tính thấm

Điều trị sốc do bỏng

Băng ép vừa, theo dõi nếu băng chặt hoặc khi chi thể bị phù nề thì băng sẽ trở thành garo, nên phải nới băng, Nếu bị bỏng hoá chất phải băng bằng chất trung hoà.

Chẩn đoán độ sâu của tổn thương bỏng

Có rất nhiều phương pháp chẩn đoán diện tích, độ sâu của tổn thương bỏng, cùng với sự phát triên khoa học và công nghệ. Trong phạm vi bài giảng, chỉ đề cập những phương pháp cơ bản, dễ áp dụng trong thực tế.

Phẫu thuật điều trị bỏng

Khớp lớn của chi bị nhiễm trùng nặng do bỏng, là nguốn gốc của nhiễm trùng toàn thân, không thể sử dụng phẫu thuật mở bao khớp, dẫn lưu hay cắt đoạn.

Chẩn đoán diện tích bỏng

Sơ sinh thì đầu to, cổ ngắn, ngực bé, bụng to, Trong suốt giai đọan phát triển chi dưới tăng chiều 5 lần, chi trên 4 lần, thân 3 lần, đầu 2 lần

Thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng

Khám vết bỏng hàng ngày là công việc thường xuyên của bác sỹ điều trị bỏng để bổ xung chẩn đoán độ sâu của bỏng và chỉ định thuốc điều trị tại chỗ và toàn thân phù hợp.

Sử dụng các loại da và vật liệu thay thế da trong bỏng

Giảm đau cho người bệnh. Hạn chế mất dịch, máu qua vết thương. Hạn chế nhiễm khuẩn vết bỏng. Kích thích biểu mô hoá ở bỏng nông, kích thích tạo mô hạt ở bỏng sâu.

Xử trí thời kỳ đầu vết thương bỏng

Ngâm vùng bỏng vào nước lạnh (16-200C) trong vòng 20-30 phút. Đặc biệt có hiệu quả trong 20 phút đầu, nếu để sau 30 phút mới ngâm nước lạnh thì không còn giá trị nữa.

Bỏng chiến tranh

Khi cháy tạo ra sức nóng cao, cháy lâu, có chất khi cháy tạo ra nhiều chất độc cho cơ thể, có chất gây bỏng đồng thời là chất độc cho cơ thể.

Hội chứng Dumping trong phẫu thuật dạ dày

Hội chứng Dumping là một nhóm các triệu chứng có thể xảy ra nếu bn có phẫu thuật để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần của dạ dày, hoặc nếu dạ dày của bệnh nhân đã được phẫu thuật nối tắt để giúp giảm cân.

Bệnh học ngoại chấn thương cột sống

Chấn thương cột sống nói chung chiếm khoảng 4-6% so với tất cả các chấn  thương. Trong thực tế khám chấn thương cột sống là khám  tổn thương ở đốt sống, đĩa đệm, dây chằng.

Bệnh học ngoại chấn thương sọ não kín

Chấn thương sọ não đã được nghiên cứu từ lâu. Từ thời Hyppocrat (460-377  trước Công  nguyên) đã có những công  trình nghiên cứu về chảy máu hộp sọ.

Bệnh học ngoại gẫy hai xương cẳng tay

Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết di lệch chồng thì nắn các di lệch sang bên, gập góc còn lại

Bệnh học ngoại gãy thân xương cánh tay

Gãy giữa chỗ bám của cơ ngực lớn và chỗ bám của cơ delta: Đầu trên khép (do cơ ngực lớn kéo), đầu dưới di lệch lên và ra ngoài (do cơ delta kéo).

Bệnh học ngoại khoa bỏng

Bỏng là một chấn thương gặp trong cả thời bình và thời chiến. Trong chiến tranh tỷ lệ bỏng chiếm từ 3-10% tổng số người bị thương. Ở Mỹ một năm theo báo cáo có hơn 2 triệu người bị bỏng, trong đó khoảng 100.000 người phải nhập viện

Bệnh học ngoại gẫy thân xương đùi

Gãy xương đùi được phân loại theo giải phẫu học và vị trí đường gãy: 1/4  trên, 2/4 giữa, 1/4 dưới. Đối với gãy 1/4  trên sát mấu chuyển thì khó phân biệt gãy mấu chuyển.

Bệnh học ngoại gãy trên lồi cầu xương cánh tay

Gãy trên lồi cầu đứng thứ mười trong các loại gãy xương ở trẻ con nói chung, thường tỷ lệ biến chứng cao hơn so với các gãy chi khác, hay gặp di chứng vẹo khuỷu vào trong

Bệnh học ngoại gẫy xương cẳng chân

Gãy xương cẳng chân là các trường hợp gãy thân xương chày từ dưới hai lồi cầu đến trên mắt cá trong, có hoặc không kèm gãy xương mác từ cổ tới trên mắt cá ngoài.

Bệnh học ngoại gẫy cổ xương đùi

Gãy cổ xương  đùi là các trường hợp gãy xương mà đường gãy là ở giữa chỏm và khối mấu chuyển. Thường gặp đối với người già, cho dù là một chấn thương nhẹ (như té đập mông). Rất hiếm gặp ở người trẻ và trẻ em.

Bệnh học ngoại u não

U não là một từ ngữ được các thầy thuốc lâm sàng gọi tên có tính cách quy  ước để chỉ các u trong sọ vì thực sự u trong mô não chỉ chiếm trên dưới 50% u trong sọ.

Bệnh học ngoại u xương

Ung thư xương là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào của xương, trong đó hay gặp nhất là ung thư liên kết tạo xương và tạo sụn. Đây là loại ung thư thường gặp ở thiếu niên và thanh niên trẻ.

Bệnh học ngoại vết thương sọ não hở

Vết thương sọ não hở là loại vết thương gặp cả trong chiến tranh và trong thời bình. Nhưng trong chiến tranh chiếm tỷ  lệ cao hơn (khoảng từ 7-10%  các loại vết thương do chiến tranh).

Bệnh học ngoại viêm xương

Viêm xương có thể tự nhiên, nhưng chấn thương đóng vai trò nào đó của sự khu trú tắc mạch xương trên một cơ quan bị nhiễm khuẩn.

Bệnh học ngoại lao xương

Lao xương giống viêm xương là hay gây tổn thương ở người trẻ, nhưng khác viêm xương, tổn thương của lao thường bắt đầu ở xương xốp sau đó lan ra xung quanh.

Bệnh học ngoại xơ vữa động mạch

Tổn thương khu trú ở lớp nội mạc, lớp nội mạc dày lên vừa phải. Các tế bào đặc trưng có chứa các tổ chức mỡ (tế bào bọt). Lớp áo giữa và áo ngoài bình thường.

Bệnh học ngoại viêm màng ngoài tim co thắt

Viêm màng ngoài tim co thắt có tràn dịch (1/3 trường hợp): Bệnh nhân trẻ, triệu chứng xuất hiện mới đây, tiền sử viêm màng ngoài tim do nhiễm khuẩn cấp.

Bệnh học ngoại ung thư phổi

Ung thư phổi là bệnh lý rất hay gặp trong phẫu thuật lồng ngực, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong những ung thư nói chung. Tỷ lệ bệnh ngày  càng tăng do ngày càng có nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư.

Bệnh học ngoại u trung thất

U trung thất là một khối u có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của trung thất. Bao  gồm khối u nguyên phát, thứ phát; lành ác. Bệnh lý hay gặp nhất là u tuyến ức, u thần kinh, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới.

Bệnh học ngoại tắc động mạch cấp tính ở chi

Mảng xơ vữa bị loét: Các mảng xơ vữa này sau đó bị cục máu đông phủ lên trên, sự di chuyển của các cục huyết khối có thể tạo ra từng đợt gây thuyên tắc.

Bệnh học ngoại phình động mạch ngoại biên

Phình động mạch ngoại biên thường ít hơn phình động mạch chủ. Có nhiều nguyên nhân gây phình động mạch ngoại biên, trong đó nguyên nhân do xơ vữa động mạch thường gặp nhất.

Bệnh học ngoại thông động tĩnh mạch

Thông động tĩnh mạch là có sự lưu thông bất thường giữa động mạch và tĩnh mạch. Nguyên nhân phần lớn do chấn thương mạch máu. Vấn đề chẩn đoán cần phát hiện sớm và có thái độ xử trí kịp thời để tránh những biến chứng về tim mạch.

Bệnh học ngoại chấn thương mạch máu ngoại biên

Hậu quả lâm sàng của chấn thương động mạch không hằng định, nhưng khi có hậu quả trên lâm sàng là một tiêu chuẩn nặng của chấn thương động mạch.

Bệnh học ngoại gẫy xương hở

Gãy xương hở do nhiều nguyên nhân và chiếm hàng đầu là tai nạn lưu thông do các loại xe mô tô và ô tô. Trong thời bình tỷ lệ gãy xương hở chiếm khoảng 8-10% các tổn thương cơ quan vận động.

Bệnh học ngoại trật khớp háng

Ở người lớn trật khớp háng do chấn thương mạnh xảy ra do một lực tác động gián tiếp vào đầu dưới xương đùi, và vùng gối khi đùi gấp, xoay trong và khép, khớp gối ở tư thế gấp.

Bệnh học ngoại trật khớp vai

Trật khớp vai là loại trật khớp phổ biến nhất trong các loại trật khớp và thường gặp ở người lớn trẻ khỏe chiếm khoảng 50 - 60 % tổng số trật khớp. Nguyên nhân và cơ chế gây trật khớp thường thấy nhất do ngã chống bàn tay hoặc chống khuỷu trong tư thế tay dạng, đưa ra sau, và xoay ngoài.

Bệnh học ngoại trật khớp khuỷu

Chỉ gặp trật khớp khuỷu ra trước khi có gẫy mỏm khuỷu, các dây chằng bị đứt các cơ nhị đầu, cơ bám vào mỏm trên lồi cầu bị đụng giập hoặc rách.

Bệnh học ngoại vết thương ngực

Các rối loạn hô hấp tuần hoàn trong vết thương ngực hở do hậu quả hô  hấp  đảo ngược và lắc lư trung thất dẫn đến thiếu O2 trầm trọng, tình trạng toàn thân của bệnh nhân thay đổi nhanh chóng.

Bệnh học ngoại chấn thương ngực kín

Nguyên nhân gây chấn thương ngực kín: Do tai nạn giao thông chiếm 70%  trường hợp và 25% trường hợp chết tại chỗ.  Tỷ lệ tử vong thứ phát do 2 rối loạn: Suy hô hấp và suy tuần hoàn.

Bệnh học ngoại ung thư bàng quang

U bàng quang là loại u thường gặp nhất trong các loại u đường tiết niệu. Theo Hội ung thư Mỹ, thì năm 1994 có khoảng 51.200 bệnh nhân mới, và đã  có khoảng 10.600 bệnh nhân tử vong.

Bệnh học ngoại ung thư thận

Ung thư thận chiếm 90% các loại u ác tính nguyên phát ở thận. Bệnh thường xuất hiện ở người lớn trên 40 tuổi, với tỉ lệ nam gấp 2 lần so với nữ giới. Ung  thư thận chiếm 1-2% toàn bộ các loại ung thư ở người lớn.

Bệnh học ngoại u xơ tiền liệt tuyến

U xơ tiền liệt tuyến là một loại u lành tính thường gặp trong bệnh lý của hệ tiết niệu và thường xuất hiện ở nam giới lớn tuổi. Mặc dù có thể thấy u xơ tiền liệt tuyến xuất hiện ở người trẻ < 30 tuổi, nhưng chủ yếu là ở nam giới trên 60 tuổi.

Bệnh học ngoại chấn thương niệu đạo

Khi dương vật mềm, niệu đạo dài khoảng 16cm, trong đó, đoạn tiền liệt tuyến dài khoảng 2,5-3cm, đoạn màng khoảng 1,2cm và đoạn xốp khoảng 12cm.

Bệnh học ngoại chấn thương thận

Chấn thương thận bao gồm tất cả các thương tổn của nhu mô thận, đường bài xuất  nước tiểu trên và cuống thận. Giới nam thường bị hơn nữ, chiếm 75-80%, do đặc trưng về nguyên nhân của loại chấn thương này.

Bệnh học ngoại nhiễm khuẩn tiết niệu

Nhiễm khuẩn tiết niệu không đặc hiệu (Non- specific infection) là loại nhiễm khuẩn thường gặp của đường tiết niệu do các loại trực khuẩn gram (-) hoặc cầu khuẩn gram (+) gây nên.

Bệnh học ngoại dị dạng hậu môn trực tràng

Từ xưa người ta đã biết đến dị tật hậu môn - trực tràng dưới một tên thông dụng là "không có hậu môn”.  Mãi cho đến thế kỷ thứ VII Paulus là người đầu tiên đã áp dụng một phẫu thuật khoan thăm dò từ tầng sinh môn.

Bệnh học ngoại ống phúc tinh mạc

Sự tồn tại của ống phúc tinh mạc là một loại bệnh lý rất thường gặp ở trẻ em  mà bệnh cảnh lâm sàng thường biểu hiện bằng hai hình thái: Hình thái cấp tính đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật như thoát vị bẹn.

Bệnh học ngoại sỏi hệ tiết niệu

Sỏi hệ tiết niệu bao gồm sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và niệu đạo, sỏi thận, niệu quản và bàng quang hay gặp hơn: Sỏi thận là một bệnh phổ biến trên thế giới. Việt Nam nằm trong “vành đai” mắc sỏi thận khá cao.

Bệnh học ngoại phình đại tràng bẩm sinh (Hirschsprung)

Bệnh Hirschsprung có thể có biểu hiện lâm sàng rất sớm ở trẻ sơ sinh bằng bệnh cảnh tắc ruột cấp tính dễ đưa đến tử vong nếu không can thiệp kịp thời hoặc có biểu hiện bán cấp tính và mạn tính ở trẻ nhũ nhi.

Bệnh học ngoại lồng ruột cấp ở trẻ còn bú

Lồng ruột thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn ở bé gái (2/1) trong độ tuổi bú  mẹ cao nhất là từ 4 - 8 tháng. Tỷ lệ gặp thấp hơn sau 1 - 2 tuổi và hiếm gặp ở trẻ lớn.

Bệnh học ngoại tắc ruột sơ sinh

Tắc ruột sơ sinh là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp trong lĩnh vực ngoại nhi. Bệnh thường xảy ra trong 15 ngày đầu của đời sống. Bệnh liên quan mật thiết đến các ngành sản khoa và nhi khoa.

Bệnh học ngoại teo đướng mật bẩm sinh

Teo đường mật bẩm sinh rất hiếm gặp. Tại Nhật Bản và các nước châu á, tỷ  lệ bệnh khoảng 1/10.000 trẻ sơ sinh sống. Tỷ lệ nữ/nam = 1:0,64. Vấn đề chẩn đoán và điều trị rất phức tạp.

Bệnh học ngoại khoa phi đại hẹp môn vị

Hẹp phì đại môn vị là một bệnh ngoại khoa thường gặp ở giữa độ tuổi sơ sinh và bú mẹ (3 tuần-6 tháng). Bệnh có biểu hiện lâm sàng bằng hội chứng nôn  do hẹp lòng môn vị bởi sự phì đại thái quá của lớp cơ vùng môn vị.

Bệnh học ngoại khoa thoát vị cơ hoành bẩm sinh

Thoát vị cơ hoành là tình trạng các tạng trong ổ phúc mạc đi vào trong lồng  ngực qua một lỗ khiếm khuyết của cơ hoành. Tần suất mắc bệnh, theo phần lớn tác giả, trong khoảng 1/2.000-1/5.000 trẻ sơ sinh sống.

Bệnh học ngoại khoa teo thực quản

Bệnh teo thực quản là hậu quả của rối loạn trong quá trình tạo phôi giữa tuần thứ 4 và tuần thứ 6, điều này giải thích cho hiện tượng teo thực quản thường kèm theo nhiều dị tật phối hợp khác.

Bệnh học ngoại khoa ung thư trực tràng

Ung thư trực tràng là một bệnh thường gặp ở Việt Nam cũng như trên thế  giới. Khoảng 8000 trường hợp ung thư trực tràng ở Pháp mỗi   năm.  Tỷ  lệ nam/nữ là 1,5.

Bệnh học ngoại khoa ung thư đại tràng

Ung thư đại  tràng là loại ung thư hay gặp đứng  hàng  thứ hai trong các  loại ung thư đường  tiêu hoá  và  là  một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong  do ung thư nói  chung.

Bệnh học ngoại khoa thoát vị đùi

Khi lỗ thoát vị đùi ở vị trí này phải chú ý: Phía ngoài cổ túi có tĩnh mạch đùi và phía trên cổ túi có động mạch thượng vị và nhánh nối động mạch thượng vị với mạch bịt.

Bệnh học ngoại khoa thoát vị bẹn

Thoát vị là tình trạng các tạng bên trong ổ phúc mạc đi ra ngoài ổ phúc mạc trong một túi thừa phúc mạc gọi là “túi thoát vị”, qua các điểm yếu tự nhiên của thành bụng. Các điểm yếu này có thể là bẩm sinh hay mắc phải.

Bệnh học ngoại khoa tắc ruột

Tắc ruột do liệt ruột gặp trong các trường hợp: sỏi tiết niệu, chấn thương cột sống hoặc khung chậu (tụ máu sau phúc mạc), viêm phúc mạc, viêm phúc mạc mật, tràn dịch tiêu hóa hoặc dịch tụy trong ổ phúc mạc.

Bệnh học ngoại khoa viêm ruột thừa cấp

Viêm ruột thừa cấp là một trong những bệnh lý cấp cứu ngoại khoa hay gặp nhất. Tần suất viêm ruột thừa cấp song hành với tần suất của quá trình phát triển của mô bạch huyết, với tỷ lệ cao nhất ở giai đoạn đầu của thập niên.

Bệnh học ngoại khoa vết thương thấu bụng

Thực tế khi có vết thương trực tiếp vào thành bụng mà không xuất hiện hội chứng mất máu cấp tính hoặc hội chứng viêm phúc mạc, chúng ta chỉ cần mở rộng thăm dò tổn thương thành bụng.

Bệnh học ngoại khoa chấn thương bụng kín

Chấn thương bụng kín hay gọi là chạm thương bụng bao gồm cả những tổn  thương về bụng, tổn thương có thể chỉ ở ngoài thành bụng nhưng có thể tổn thương các tạng đặc trong ổ bụng (như gan, lách, tụy...).

Bệnh học ngoại khoa xuất huyết tiêu hóa

Xuất huyết tiêu hoá được định nghĩa là sự đào thải qua đường miệng và hay là qua đường đường hậu môn một số lượng máu từ các thương tổn của  đường tiêu hoá.

Bệnh học ngoại khoa ung thư gan

Ung thư gan nguyên phát ở các nước Âu - Mỹ rất hiếm gặp chiếm khoảng 1-2% các loại ung thư. Trong khi châu á, Phi rất hay gặp. Đây là loại ung thư tiến triển rất nhanh và điều trị đang còn gặp nhiều khó khăn.

Bệnh học ngoại khoa áp xe gan amip

Áp xe gan là loại bệnh đã được nghiên cứu từ hơn một thế kỷ nay. Triệu chứng thường điển hình với sốt, gan to, đau. Áp xe gan do amíp thường chỉ có một ổ.

Bệnh học ngoại khoa sỏi ống mật chủ

Khi tắc mật, dịch mật không xuống tá tràng mà ứ đọng trong gan. Sắc tố mật, muối mật vào máu, bilirubin máu tăng cao, do sắc tố mật có màu vàng nên da, giác mạc mắt có màu vàng.

Bệnh học ngoại khoa ung thư dạ dày

Ung  thư dạ dày là một trong những ung thư ống tiêu hóa thường gặp, trong thực tế tiên lượng vẫn không thay đổi nhiều từ nhiều năm nay. Thời gian sống đến 5 năm của  ung thư dạ dày khoảng 15% và thời gian sống 5 năm sau phẫu thuật triệt căn khoảng 30%. 

Bệnh học ngoại khoa hẹp môn vị

Loét dạ dày-tá tràng là nguyên nhân hay gặp nhất. Tất cả mọi vị trí của ổ loét ở dạ dày hay tá tràng, ở gần hay xa môn vị, đều có thể gây nên hẹp môn vị tạm thời hay vĩnh viễn.

Bệnh học ngoại khoa thủng dạ dày tá tràng

Thủng ổ loét dạ dày - tá tràng là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Chẩn đoán thường dễ vì trong đa số trường hợp các  triệu chứng khá điển hình, rõ rệt.

Bệnh học ngoại khoa ung thư thực quản

Ung thư thể thâm nhiễm chủ yếu phát triển ở lớp niêm mạc xâm lấn vào lớp dưới niêm mạc rồi vào lớp cơ, phát triển theo hình vòng nhẫn, do đó làm ống thực quản bị chít hẹp.