Bệnh học ngoại tắc động mạch cấp tính ở chi

2012-10-22 08:50 PM

Mảng xơ vữa bị loét: Các mảng xơ vữa này sau đó bị cục máu đông phủ lên trên, sự di chuyển của các cục huyết khối có thể tạo ra từng đợt gây thuyên tắc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Cách đây trên 80 năm, điều trị thiếu máu cấp tính ở chi chỉ có một phương pháp duy nhất là cắt cụt. Từ năm 1911, sau khi lần đầu tiên người ta thực hiện thành công lấy cục máu gây thuyên tắc, khi đó mới xuất hiện nhiều phương pháp điều trị khác nhau. Cuộc cách mạng trong điều trị thiếu máu cấp tính ở chi xảy ra sau khi ra đời heparin (1914), kỹ thuật lấy cục máu thuyên tắc bằng sond Fogarty (1963) và kỹ thuật tái lập lưu thông mạch máu bằng phẫu thuật cấp cứu.

Đây là một cấp cứu nội - ngoại khoa mạch máu, đòi hỏi phải nhập viện kịp thời, chẩn đoán nhanh và điều trị cấp cứu. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong hiện nay  vẫn còn khoảng 20  - 25%, và khả năng bệnh nhân xuất viện đi trên hai chân nguyên vẹn chỉ chiếm khoảng 70% các trường hợp.

Gọi là thiếu máu cấp tính ở chi khi thiếu máu đóng vai trò tiên lượng cho sự  sống của chi nếu không can thiệp cấp cứu trong vài giờ (trước 6 giờ).

Có 3 nhóm nguyên nhân chính gây thiếu máu cấp tính ở chi, đó là từ nguồn gốc gây thuyên tắc, huyết khối tắc mạch cấp và do chấn thương động mạch.

Thuyên tắc mạch máu

Thuyên tắc là do một cục máu đông từ nơi khác di chuyển đến do tắc mạch. Cục máu đông có thể đơn thuần hay phối hợp với các chất vôi hóa, mảng xơ vữa  hay các tổ chức sùi nhiễm khuẩn, và vị trí khởi phát cục máu đông hoặc là ở tim hoặc là ở động mạch.

Bệnh tim gây thuyên tắc

Đây là nguyên nhân gây thuyên tắc mạch ngoại vi hay gặp nhất (90% các trường hợp). Các nguyên nhân kinh điển hay gặp là:

Loạn nhịp tim kịch phát (rung nhĩ là nguyên nhân hàng đầu).

Sự di chuyển cục máu đông trong nhĩ trái bị dãn lớn và ứ trệ (bệnh van 2 lá, suy tim, bệnh lý nhĩ trái).

Nhồi máu cơ tim: Huyết khối ở thành tim, phình thất trái.

Nguyên nhân tại van tim: Thuyên tắc cục vôi hóa trong hẹp van động mạch chủ vôi hóa, thuyên tắc nhiễm khuẩn trong bệnh Osler, và đặc biệt là trong trường hợp bệnh nhân mang van tim nhân tạo.

Các nguyên nhân hiếm gặp khác: Phình vách liên  thất, bệnh cơ tim không gây tắc nghẽn, sa van 2 lá, u nhầy  nhĩ trái...

Bệnh động mạch gây thuyên tắc

10% các trường hợp thuyên tắc. Có thể do:

Mảng xơ vữa  bị loét: Các mảng xơ vữa này sau đó bị cục máu đông phủ lên trên, sự di chuyển của các cục huyết khối có thể tạo ra từng đợt gây thuyên tắc. Thường gặp nhất là xơ vữa từ động mạch chủ bụng đoạn dưới thận gây thuyên tắc ở 2 chi dưới.

Các khối phình động mạch: Là nguyên nhân thứ nhì hay gặp trong thuyên tắc động mạch. Thuyên tắc xuất phát từ huyết khối hình thành ở trong lòng khối phình. Phình động mạch chủ bụng và động mạch khoeo là hay gặp nhất.

Các tác nhân ít gặp khác: Phình động mạch viêm (Takayasu), thuyên tắc nghịch đảo từ huyết khối tĩnh mạch, giảm tiểu cầu do heparin.

Huyết khối tắc mạch cấp

Tắc mạch cấp trên động mạch bị xơ vữa

Đây là nguyên nhân hay gặp nhất trong tắc mạch do huyết khối. Có nhiều cơ chế khác nhau gây huyết khối tắc mạch cấp tính:

Huyết khối hình thành trên một mảng xơ vữa bị loét và gây tắc lòng động mạch.

Huyết khối được tổ chức hóa và sát nhập vào thành mạch, nó được biểu mô   hóa và làm hẹp lòng mạch. Khi có giảm lưu lượng máu hệ thống, nó thường gây tắc lòng mạch và đây là cơ chế hay gặp nhất.

Khối máu tụ dưới mảng xơ vữa cũng là nguyên nhân gây tắc mạch.

Huyết khối trong các phình động mạch

Huyết khối gây tắc mạch cấp là một biến chứng hay gặp nhất của bệnh phình động mạch chi do bất kỳ nguyên nhân nào. Huyết khối thường xuất hiện sau nhiều đợt  gây thuyên tắc ở các động mạch của cẳng chân (mà thường chưa có biểu hiện lâm sàng) và nó làm phá hủy giường mạch máu ở hạ lưu.

Các nguyên nhân gây huyết khối tắc mạch cấp khác

Bệnh động mạch không do xơ vữa: Bệnh Buerger, bệnh Takayasu, bệnh    viêm quanh động mạch dạng nốt.

Bóc tách động mạch chủ type I hay III theo De Barkey.

Các chèn ép cơ học:

Hội chứng động mạch khoeo không lối thoát.

Nang ngoại mạc của động mạch khoeo.

U kế cận mạch máu (các chồi xương ở chi).

Các nguyên nhân về huyết học: Thường tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình  thành huyết khối, đặc biệt ở trên những động mạch bị bệnh lý và bị hẹp.

Tình trạng tăng đông máu: Đa hồng cầu, tăng tiểu cầu, lupus ban đỏ rải rác, ung thư.

Suy giảm bẩm sinh các yếu tố đông - cầm máu (antithrombine III, protein C,  protein S, bất thường hệ thống fibrinogen, bất thường sự ngưng tập tiểu cầu).

Các tác nhân do thuốc: Các thuốc progestif, tiêm vào trong động mạch các chất  barbiturat, các chất gây xơ tĩnh mạch, ma túy...).

Chấn thương động mạch

Vết thương động mạch, đụng giập động mạch hoặc tổn thương động mạch do thầy  thuốc (chọc catheter) đều có thể gây tắc mạch cấp.

Trong chấn thương do chèn ép tổ chức, do garô kéo dài hoặc do chôn vùi (hội chứng vùi lấp) cũng có thể gây tắc mạch cấp.

Các nguyên nhân không rõ

Đôi khi không tìm thấy nguyên nhân nào cả. Tắc mạch cấp khi đó đặt ra vấn đề khó khăn trong điều trị, nhất là để tránh tái phát.

Sinh lý bệnh

Các yếu tố làm gia tăng sự giảm lưu lượng máu ở bên dưới vị trí tắc mạch.

Huyết áp: Sốc hoặc giảm huyết áp động mạch có thể là những yếu tố duy nhất làm mất bù trong bệnh động mạch mạn tính tắc nghẽn. Duy trì huyết áp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự tưới máu của tuần hoàn bàng hệ.

Tuần hoàn bàng hệ: Có vai trò bù trừ cho hậu quả tắc mạch cấp trong vài giờ.

Giường động mạch hạ lưu: Thay đổi theo từng bệnh nhân.

Các hậu quả sinh lý bệnh

Các hậu quả tại chỗ

Nếu thời gian thiếu máu kéo dài sẽ gây hoại tử tế bào. Thiếu oxy ở cơ sẽ gây giãn mao mạch làm phù nề tổ chức kẽ và gia tăng áp lực kẽ làm cản trở và gây ứ trệ tuần hoàn tĩnh mạch làm gia tăng tình trạng phù; đồng thời do  chuyển hóa yếm khí (các chất chuyển hóa acid giãn mao mạch) tạo nên một vòng  bệnh lý lẩn quẩn.

Áp lực kẽ gia tăng (tạo nên hội chứng chèn ép khoang cản trở tuần hoàn mao  mạch).

Các hậu quả toàn thân

Do ly giải cơ vân, nó làm  gia tăng các men trong tổ chức cơ, Kali... và gây ra nhiều biến chứng toàn thân:

 Sốc giảm thể tích (do thoát dịch ra ngoại bào).

Các rối loạn chuyển hóa (tăng Kali máu, toan chuyển hóa, tăng uric máu,  myoglobin máu, myoglobin niệu, tăng creatinin máu, tăng calci máu, tăng  phosphat máu và đôi khi gây huyết  khối rải rác trong lòng mạch (CIVD).

Suy thận: Có thể phối hợp các cơ chế: Giảm lưu lượng (sốc), lắng đọng myoglobin trong ống thận, độc tính trực tiếp lên ống thận (môi trường acide).

 Nhiễm  khuẩn: Thường vi khuẩn phát triển ở tổ chức cơ hoại tử, ở tổ chức cơ sau khi mở cân mạc.

Chẩn đoán thiếu máu cấp tính ở chi

Chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng và phải có thái độ xử trí đúng và sớm.

Chẩn đoán dễ khi ở dạng điển hình, các triệu chứng bao gồm:

Đau.

Chi  tái nhợt.

Mất mạch.

Giảm hoặc mất cảm giác.

Giảm vận động hoặc liệt.

Chi lạnh.

Tuần hoàn tĩnh mạch trở về chậm  hoặc không có, tĩnh mạch dẹt.

Tuy nhiên lâm sàng đôi khi không đầy đủ, nhưng khi  khám lâm sàng và so sánh khách quan ta có thể thấy chi lạnh, mạch ngoại vi mất.

Các mức độ nặng của thiếu máu chi:

Mức độ I: Thiếu máu gây giảm cảm giác và vận động không hoàn toàn (áp lực động mạch ở đầu xa của chi trên Doppler < 40 mmHg).

Mức độ II: Mất cảm giác và vận động hoàn toàn.

Mức độ III: Đau khối cơ khi sờ, co cứng các khối cơ ở chi do thiếu máu.

Mức độ IV: Tổn thương ở da, hoại tử chi.

Cận lâm sàng (siêu âm Doppler mạch máu, siêu âm tim, chụp động mạch, bilan về huyết học) cần cân nhắc và không nên làm chậm trễ điều trị.

Chẩn đoán định khu tổn thương

Vị trí tắc mạch có thể suy ra từ vị trí đau ban đầu, từ vị trí mất mạch và giới hạn thiếu máu ở chi.

Trong thực tế lâm sàng, tắc mạch cấp chi dưới có thể gặp:

Tắc tại chạc ba động mạch chủ-chậu: Bệnh nhân ở trong tình trạng sốc,    trụy tim mạch, thiếu máu cả hai chi dưới lan lên tận rốn, liệt vận động - cảm  giác hai chi dưới sớm (trong  khoảng 1 giờ), mạch đùi hai bên không sờ thấy.

Tắc động mạch đùi - khoeo: Đặc trưng bởi thiếu máu ở xa (cẳng chân, bàn  chân), mạch đùi còn bắt được, mạch khoeo không bắt được.

Tắc động mạch chậu - đùi: Thiếu máu ở cẳng chân và có thể lan đến đùi,  mạch đùi không bắt được.

Chẩn đoán nguyên nhân

Trong trường hợp chấn thương động mạch: Thường dễ dàng chẩn đoán.

Ngoài bối cảnh chấn thương:

Chẩn đoán nguyên nhân do thuyên tắc hoặc huyết khối dựa vào tiền sử, hoàn cảnh xuất hiện  bệnh, các triệu chứng khởi phát bệnh đột ngột hay không, khám lâm sàng ở các chi và so sánh.

Bảng: Phân biệt nguyên nhân thuyên tắc và huyết khối động mạch cấp.

Tuổi

Thường  ở bệnh nhân trẻ

Lớn tuổi

Xuất hiện

Đột ngột

Từ từ hoặc nhanh

Đau

Cấp, dữ dội

Đau vừa phải

Nhiệt độ chi

Giảm nhiều, chi lạnh

Giảm không thường  xuyên

Bất thường ở tim

Thường có

Không có

Yếu tố thuận lợi

Rung nhĩ

Giảm lưu lượng  tim (nhồi máu cơ tim), tăng đông máu

Bệnh động mạch từ trước

Không có

Thường có

Chụp động mạch (Nếu có)

Hình cắt cụt, có thể thấy loét mãng xơ vữa động mạch chủ ở xa chỗ   tắc, tuần hoàn bàng  hệ kém phát triển hay không có, không thấy giường mạch máu hạ lưu

Xơ vữa, hẹp động mạch nhiều chỗ, tuần hoàn bàng hệ ít nhiều có phát triển.

Nguyên tắc điều trị

Điều trị ngay khi xác định được thiếu máu cấp tính ở chi. Các bước điều trị chính bao gồm:

Tránh sự lan rộng của cục máu đông

Điều trị kháng đông bằng heparin: Heparin được dùng ngay khi xác định chẩn  đoán. Liều heparin 5.000 UI tiêm tĩnh mạch khi bắt đầu điều trị, tiếp theo dùng liều khỏang 500 UI/kg/ngày truyền liên tục qua bơm điện và điều chỉnh liều theo TCA.

Heparin trọng lượng phân tử thấp không có chỉ định trong trường hợp này.

Lấy bỏ cục máu gây tắc mạch

Chủ yếu bằng phẫu thuật.

Lấy bỏ cục thuyên tắc bằng sonde Fogarty.

Làm cầu nối mạch máu trong trường hợp huyết khối cấp gây tắc mạch trên động mạch bệnh lý.

Dùng thuốc làm tan huyết khối qua đường động mạch hoặc phối hợp với kỹ   thuật hút bỏ huyết khối.

Mở cân mạc khi có chèn ép khoang.

Cắt cụt chi khi thiếu máu không hồi phục, hoặc khi điều trị tái lập lưu thông mạch máu thất bại, hoặc khi có các rối loạn toàn thân gây đe dọa tính mạng bệnh nhân (hội chứng tái  tưới máu gây suy thận, rối loạn chuyển hóa).

Giảm đau

Có thể dùng phối hợp với thuốc vận mạch.

Bảo vệ chi bị thiếu máu

Chăm sóc chi  bị thiếu máu cho đến khi  tái lập lưu thông mạch máu. Cần ủ ấm, tránh cọ xát, tránh dùng băng dán lên phần da bị thiếu máu.

Điều trị các quá trình bệnh lý gây thuận lợi cho thiếu máu

Điều trị sốc giảm thể tích, giảm lưu lượng tim.

Ngăn ngừa các hậu quả của thiếu máu cấp

Chủ yếu là ngăn ngừa các hậu  quả về chuyển hóa và của hội chứng tái tưới máu.

Điều trị tình trạng toan chuyển hóa (Bicarbonates)

Điều trị tăng Kali máu (Kayexalate, Glucagon, lọc ngoài thận, rửa chi).

Điều trị suy thận cấp.

Xác định lại nguyên nhân

Cần phân biệt 4 nhóm.

Thuyên tắc trên động mạch lành.

Huyết khối trên động mạch bệnh lý.

Huyết khối trên động mạch lành.

Thuyên tắc trên động mạch bệnh lý.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh học ngoại chấn thương ngực kín

Nguyên nhân gây chấn thương ngực kín: Do tai nạn giao thông chiếm 70%  trường hợp và 25% trường hợp chết tại chỗ.  Tỷ lệ tử vong thứ phát do 2 rối loạn: Suy hô hấp và suy tuần hoàn.

Bệnh học ngoại khoa thủng dạ dày tá tràng

Thủng ổ loét dạ dày - tá tràng là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Chẩn đoán thường dễ vì trong đa số trường hợp các  triệu chứng khá điển hình, rõ rệt.

Bệnh học ngoại lồng ruột cấp ở trẻ còn bú

Lồng ruột thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn ở bé gái (2/1) trong độ tuổi bú  mẹ cao nhất là từ 4 - 8 tháng. Tỷ lệ gặp thấp hơn sau 1 - 2 tuổi và hiếm gặp ở trẻ lớn.

Bệnh học ngoại sỏi hệ tiết niệu

Sỏi hệ tiết niệu bao gồm sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và niệu đạo, sỏi thận, niệu quản và bàng quang hay gặp hơn: Sỏi thận là một bệnh phổ biến trên thế giới. Việt Nam nằm trong “vành đai” mắc sỏi thận khá cao.

Bệnh học ngoại ung thư phổi

Ung thư phổi là bệnh lý rất hay gặp trong phẫu thuật lồng ngực, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong những ung thư nói chung. Tỷ lệ bệnh ngày  càng tăng do ngày càng có nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư.

Dấu hiệu triệu chứng lâm sàng sốc bỏng

Do thoát dịch, huyết tương từ lòng mạch ra khoảng gian bào, Nguyên nhân do tổn thương mao mạch, rối loạn vi tuần hoàn gây giãn mạch, tăng tính thấm

Bệnh học ngoại trật khớp khuỷu

Chỉ gặp trật khớp khuỷu ra trước khi có gẫy mỏm khuỷu, các dây chằng bị đứt các cơ nhị đầu, cơ bám vào mỏm trên lồi cầu bị đụng giập hoặc rách.

Chẩn đoán diện tích bỏng

Sơ sinh thì đầu to, cổ ngắn, ngực bé, bụng to, Trong suốt giai đọan phát triển chi dưới tăng chiều 5 lần, chi trên 4 lần, thân 3 lần, đầu 2 lần

Bệnh học ngoại khoa ung thư gan

Ung thư gan nguyên phát ở các nước Âu - Mỹ rất hiếm gặp chiếm khoảng 1-2% các loại ung thư. Trong khi châu á, Phi rất hay gặp. Đây là loại ung thư tiến triển rất nhanh và điều trị đang còn gặp nhiều khó khăn.

Bệnh học ngoại vết thương sọ não hở

Vết thương sọ não hở là loại vết thương gặp cả trong chiến tranh và trong thời bình. Nhưng trong chiến tranh chiếm tỷ  lệ cao hơn (khoảng từ 7-10%  các loại vết thương do chiến tranh).

Bệnh học ngoại khoa xuất huyết tiêu hóa

Xuất huyết tiêu hoá được định nghĩa là sự đào thải qua đường miệng và hay là qua đường đường hậu môn một số lượng máu từ các thương tổn của  đường tiêu hoá.

Bệnh học ngoại khoa áp xe gan amip

Áp xe gan là loại bệnh đã được nghiên cứu từ hơn một thế kỷ nay. Triệu chứng thường điển hình với sốt, gan to, đau. Áp xe gan do amíp thường chỉ có một ổ.

Xử trí thời kỳ đầu vết thương bỏng

Ngâm vùng bỏng vào nước lạnh (16-200C) trong vòng 20-30 phút. Đặc biệt có hiệu quả trong 20 phút đầu, nếu để sau 30 phút mới ngâm nước lạnh thì không còn giá trị nữa.

Bệnh học ngoại ung thư bàng quang

U bàng quang là loại u thường gặp nhất trong các loại u đường tiết niệu. Theo Hội ung thư Mỹ, thì năm 1994 có khoảng 51.200 bệnh nhân mới, và đã  có khoảng 10.600 bệnh nhân tử vong.

Bệnh học ngoại nhiễm khuẩn tiết niệu

Nhiễm khuẩn tiết niệu không đặc hiệu (Non- specific infection) là loại nhiễm khuẩn thường gặp của đường tiết niệu do các loại trực khuẩn gram (-) hoặc cầu khuẩn gram (+) gây nên.

Bệnh học bỏng trẻ em

Tính diện tích bỏng dựa theo bảng của Lund và Browder hoặc của Berkow chia bề mặt các phần cơ thể thành các đơn vị diện tích phù hợp với tuổi nhằm giúp chẩn đoán chính xác diện tích bỏng.

Bệnh học ngoại phình đại tràng bẩm sinh (Hirschsprung)

Bệnh Hirschsprung có thể có biểu hiện lâm sàng rất sớm ở trẻ sơ sinh bằng bệnh cảnh tắc ruột cấp tính dễ đưa đến tử vong nếu không can thiệp kịp thời hoặc có biểu hiện bán cấp tính và mạn tính ở trẻ nhũ nhi.

Bệnh học ngoại teo đướng mật bẩm sinh

Teo đường mật bẩm sinh rất hiếm gặp. Tại Nhật Bản và các nước châu á, tỷ  lệ bệnh khoảng 1/10.000 trẻ sơ sinh sống. Tỷ lệ nữ/nam = 1:0,64. Vấn đề chẩn đoán và điều trị rất phức tạp.

Bệnh học ngoại khoa bỏng

Bỏng là một chấn thương gặp trong cả thời bình và thời chiến. Trong chiến tranh tỷ lệ bỏng chiếm từ 3-10% tổng số người bị thương. Ở Mỹ một năm theo báo cáo có hơn 2 triệu người bị bỏng, trong đó khoảng 100.000 người phải nhập viện

Bệnh học ngoại khoa thoát vị cơ hoành bẩm sinh

Thoát vị cơ hoành là tình trạng các tạng trong ổ phúc mạc đi vào trong lồng  ngực qua một lỗ khiếm khuyết của cơ hoành. Tần suất mắc bệnh, theo phần lớn tác giả, trong khoảng 1/2.000-1/5.000 trẻ sơ sinh sống.

Bệnh học ngoại phình động mạch ngoại biên

Phình động mạch ngoại biên thường ít hơn phình động mạch chủ. Có nhiều nguyên nhân gây phình động mạch ngoại biên, trong đó nguyên nhân do xơ vữa động mạch thường gặp nhất.

Bệnh học ngoại khoa ung thư thực quản

Ung thư thể thâm nhiễm chủ yếu phát triển ở lớp niêm mạc xâm lấn vào lớp dưới niêm mạc rồi vào lớp cơ, phát triển theo hình vòng nhẫn, do đó làm ống thực quản bị chít hẹp.

Hội chứng Dumping trong phẫu thuật dạ dày

Hội chứng Dumping là một nhóm các triệu chứng có thể xảy ra nếu bn có phẫu thuật để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần của dạ dày, hoặc nếu dạ dày của bệnh nhân đã được phẫu thuật nối tắt để giúp giảm cân.

Bệnh học ngoại khoa teo thực quản

Bệnh teo thực quản là hậu quả của rối loạn trong quá trình tạo phôi giữa tuần thứ 4 và tuần thứ 6, điều này giải thích cho hiện tượng teo thực quản thường kèm theo nhiều dị tật phối hợp khác.

Bệnh học ngoại u não

U não là một từ ngữ được các thầy thuốc lâm sàng gọi tên có tính cách quy  ước để chỉ các u trong sọ vì thực sự u trong mô não chỉ chiếm trên dưới 50% u trong sọ.