- Trang chủ
- Sách y học
- Bệnh học ngoại khoa
- Bệnh học ngoại khoa xuất huyết tiêu hóa
Bệnh học ngoại khoa xuất huyết tiêu hóa
Xuất huyết tiêu hoá được định nghĩa là sự đào thải qua đường miệng và hay là qua đường đường hậu môn một số lượng máu từ các thương tổn của đường tiêu hoá.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đại cương
Xuất huyết tiêu hoá được định nghĩa là sự đào thải qua đường miệng và hay là qua đường đường hậu môn một số lượng máu từ các thương tổn của đường tiêu hoá. Xuất huyết tiêu hoá có thể do nhiều nguyên nhân, đại thể hoặc vi thể. Đứng trước một trường hợp xuất huyết tiêu hóa cao hoặc thấp thì thái độ cấp cứu đầu tiên rất quan trọng, bao gồm đánh giá mức độ nặng của xuất huyết, xác định nguyên nhân và có kế hoạch theo dõi và thái độ xử trí.
Phân loại
Người ta chia xuất huyết tiêu hóa ra làm hai loại:
Xuất huyết tiêu hoá cao
Nôn ra máu tươi và đại tiện phân đen. Nguyên nhân thường nằm ở đường tiêu hoá bên trên góc Treitz. Trong trường hợp này cần phân biệt với nôn ra máu và ho ra máu.
Các nguyên nhân hay gặp của xuất huyết tiêu hóa cao bao gồm: Loét dạ dày - tá tràng, viêm dạ dày - tá tràng cấp, vỡ tĩnh mạch thực quản giãn do tăng áp tĩnh mạch cửa.
Xuất huyết tiêu hoá thấp
Xuất huyết tiêu hóa thấp được định nghĩa là sự đào thải máu qua hậu môn. Gần 20% trường hợp chảy máu tiêu hoá thấp vẫn không giải thích được, nghĩa là rất khó chẩn đoán. Nguồn chảy máu nằm ở dưới góc Treitz. Các nguyên nhân hay gặp của xuất huyết tiêu hóa thấp là trĩ, viêm túi thừa, loét đại tràng, u đại - trực tràng.
Lâm sàng và cận lâm sàng
Xuất huyết tiêu hoá cao
Nôn ra máu: Bệnh nhân có cảm giác tanh lợm mùi máu trong miệng, sau đó buồn nôn và nôn ra máu tươi có thể lẫn máu cục và thức ăn. Máu không có bọt khí.
Đại tiện phân đen: Phân sệt, đen màu hắc ín, mùi thối khắm.
Trong những trường hợp này phải khám hầu họng để loại trừ chảy máu từ mũi, họng. Khám hệ hô hấp để loại trừ ho ra máu.
Đặt sonde dạ dày hút thường có máu tươi hoặc lẫn máu cục và thức ăn.
Đánh giá mức độ mất máu trên lâm sàng rất khó, có thể dựa vào tình trạng huyết động và khối lượng máu nôn ra ngoài và hoặc đại tiện phân đen, nhưng các yếu tố này chỉ có tính cách tương đối.
Toàn thân: Tùy theo tình trạng mất máu, lượng máu mất mà tình rạng toàn thân có thay đổi hay không. Trong trường hợp chảy máu cấp tính lượng nhiều, bệnh nhân có thể rơi vào tình trạng sốc do mất máu: Thay đổi mạch, huyết áp, tri giác...
Cần tiến hành các thăm dò cần thiết để xác định nguyên nhân: Nội soi đường tiêu hoá trên rất có giá trị cho chẩn đoán và điều trị. Nội soi xác định được vị trí chảy máu, có thể phối hợp tiêm xơ trong một số trường hợp. Ngoài ra, cần làm các xét nghiệm cấp cứu như nhóm máu, công thức máu, hematocrit, hemoglobin...
Chụp đường tiêu hoá có cản quang không có giá trị trong những trường hợp này.
Xuất huyết tiêu hoá thấp
Đại tiện phân máu hoặc ỉa máu hoặc phân đen. Nếu đen là do máu ứ đọng trong ống tiêu hoá, mùi đặc biệt thối khắm và thường có nguồn gốc ở cao. Máu đỏ tươi thường là do mới chảy và có nguồn gốc ở thấp (trĩ, u trực tràng ...).
Tình trạng toàn thân thường ít thay đổi và tuỳ thuộc vào mức độ chảy máu. Người ta chia xuất huyết tiêu hóa thấp thành 2 loại: Chảy máu nặng (đòi hỏi phải truyền máu cấp cứu) và chảy máu vừa hoặc nhẹ (không cần thiết phải truyền máu).
Thăm khám trực tràng thường có máu đen dính găng. Đôi khi sờ được khối u trực tràng thấp hoặc phát hiện được các búi trĩ đang chảy máu.
Nội soi đại trực tràng bằng ống soi mềm có thể phát hiện được nguyên nhân chảy máu: Khối u đại trực tràng, viêm loét đại tràng, túi thừa đại tràng chảy máu, nứt kẽ hậu môn.
Trong những trường hợp chảy máu ít, đôi khi phân không có màu đen mà phải xét nghiệm tìm máu ẩn trong phân. Trong những trường hợp này thường do bệnh lý u lành tính đại trực tràng (polyp, bệnh polyp đại tràng, bệnh Crohn...).
Chụp đại tràng cản quang có thể phát hiện được các nguyên nhân gây chảy máu: Khối u, túi thừa...Chụp đại tràng cản quang chống chỉ định trong trường hợp xuất huyết tiêu hóa thấp kèm tắc ruột hoặc nghi ngờ thủng vào ổ phúc mạc.
Đánh giá mức độ nặng của xuất huyết tiêu hóa
Đánh giá mức độ nặng của xuất huyết tiêu hóa dựa vào khối lượng máu mất (qua phân, qua chất nôn), tình trạng huyết động (mạch, huyết áp) và các xét nghiệm huyết học (hồng cầu, Hct).
Người ta phân thành 3 mức độ mất máu: Nhẹ, vừa và nặng. Trong đó, xuất huyết tiêu hóa được gọi là nặng khi:
Huyết áp tâm thu dưới 90mmHg.
Mạch nhanh trên 120 lần/phút.
Lượng máu mất ước tính từ 1500-2000ml (tuy nhiên khó xác định chính xác).
Hồng cầu dưới 2 triệu.
Hematocrit dưới 30%.
Hemoglobin dưới 10g/dl.
Trên lâm sàng cần phải truyền ít nhất 3 đơn vị máu để duy trì huyết áp động mạch.
Nguyên tắc điều trị
Những biện pháp cần làm ngay khi chẩn đoán
Đánh giá mức độ nặng của xuất huyết (như trên).
Đặt đường truyền tĩnh mạch.
Xác định nhóm máu, hồng cầu, hematocrit, hemoglobin.
Đặt sonde tiểu để theo dõi lượng nước tiểu hàng giờ.
Đặt sonde dạ dày, nhất là trong trường hợp xuất huyết tiêu hóa cao. Có thể phối hợp súc rửa dạ dày bằng dung dịch lạnh và bơm các thuốc băng niêm mạc.
Lập bảng theo dõi tình trạng huyết động, các xét nghiệm huyết học.
Điều trị triệu chứng
Bồi phụ thể tích tuần hoàn:
Truyền máu đồng nhóm, truyền dung dịch cao phân tử. Tốc độ và thể tích truyền phụ thuộc vào mức độ mất máu và được theo dõi bằng áp lực tĩnh mạch trung tâm.
Theo dõi diễn tiến chảy máu
Theo dõi tình trạng huyết động.
Theo dõi dịch hút từ ống sonde dạ dày, tình trạng nôn ra máu, đại tiện phân đen.
Theo dõi các xét nghiệm huyết học, có 2 khả năng xảy ra:
Máu ngừng chảy: Tình trạng huyết động ổn định dần, hết nôn ra máu, dịch qua sonde dạ dày nhạt dần rồi trong hẳn, các chỉ số huyết học dần dần trở về bình thường.
Máu tiếp tục chảy hoặc chảy lại sau khi tạm ngừng: Tình trạng huyết động xấu dần hoặc không ổn định, tiếp tục nôn ra máu; hồng cầu và hematocrit giảm nhiều, truyền dịch hoặc máu nhưng vẫn không duy trì được huyết động.
Chẩn đoán nguyên nhân
Sau khi chẩn đoán xuất huyết tiêu hóa, xác định mức độ nặng của xuất huyết và tiến hành các bước điều trị ban đầu, ta cần xác định nguyên nhân để có biện pháp điều trị tiếp theo. Để xác định nguyên nhân, ngoài những dấu hiệu lâm sàng của xuất huyết tiêu hóa cao hoặc thấp như đã nói trên, cần tiến hành soi dạ dày - tá tràng và hoặc soi đại tràng cấp cứu hay trì hoãn. Tùy theo nguyên nhân mà có kế hoạch điều trị cụ thể.
Các nguyên nhân xuất huyết tiêu hóa hay gặp
Xuất huyết tiêu hóa cao
Loét dạ dày - tá tràng
Xuất huyết tiêu hóa là biến chứng rất thường gặp và rất nặng nề của loét dạ dày - tá tràng.
Hỏi bệnh nhân: Chẩn đoán tương đối dễ nếu bệnh nhân có tiền sử loét điển hình đã biết trước đã được điều trị và đã được chẩn đoán xác định bởi nội soi hoặc X quang chuẩn bị.
Chẩn đoán vẫn còn nghi ngờ khi bệnh nhân đã dùng những thuốc gọi là độc hại cho dạ dày chẳng hạn như corticoid và nhất là những thuốc chống viêm không steroid, ví dụ aspirin và những chất dẫn xuất của nó, đồng thời những loại thuốc chống đông máu làm thuận lợi cho sự chảy máu ở những thương tổn có từ trước. Sau cùng trong 1/3 đến 2/3 trường hợp chảy máu tiêu hoá là khởi đầu của bệnh loét dạ dày - tá tràng.
Nội soi bằng ống soi mềm để phát hiện ra ổ loét. Kích thước, tính chất ổ loét, một ổ hay nhiều ổ. Những vị trí của ổ loét dạ dày - tá tràng mà còn định vị ổ loét so với những mạch máu lớn. Ví dụ mặt sau thì gần với động mạch vị tá tràng do loét hành tá tràng hay ổ loét ở bờ cong nhỏ thì gần với động mạch vành vị.
Tiến triển: Tùy thuộc vào các yếu tố nguy cơ chung của xuất huyết tiêu hóa, nguyên nhân gây loét, vị trí và tình trạng ổ loét. Trong 70-80% trường hợp, xuất huyết tiêu hóa tự cầm sau một thời gian điều trị nội khoa. 20-30% trường hợp cần phải can thiệp phẫu thuật để tránh sự tái phát hay xuất huyết tiêu hóa dội đe doạ tính mạng bệnh nhân.
Về điều trị: Có 3 nguyên tắc điều trị cơ bản được đề cập cho loét dạ dày - tá tràng chảy máu, bao gồm: điều trị nội khoa cơ bản, tiêm xơ qua nội soi, và phẫu thuật.
Viêm dạ dày - tá tràng xuất huyết
Khám lâm sàng có thể gợi nhớ đến hai hoàn cảnh xuất hiện:
Dùng thuốc độc hại đến dạ dày - tá tràng là nguyên nhân thường gặp dẫn đến viêm dạ dày - tá tràng, ngoài ra nó có thể làm thuận lợi cho những trường hợp loét chảy máu thậm chí thủng ổ loét. Ngoài những trường hợp ngộ độc rượu có thể đưa đến viêm dạ dày cấp chảy máu.
Trong hoàn cảnh bị stress tương ứng trong những trường hợp suy yếu những phủ tạng trầm trọng cấp tính hoặc mạn tính.
Trường hợp suy yếu não bộ: Hôn mê cho dù là những nguyên nhân nào nhất là sau những chấn thương sọ não (Cushing ulcer), viêm màng não hay xuất huyết màng não và u não.
Suy hô hấp cấp tính hay mạn tính thậm chí trong những trường hợp mất bù trừ hô hấp ngay cả khi bệnh nhân được thông khí hỗ trợ.
Suy thận cấp hay mạn tính với thiểu niệu-vô niệu thậm chí ở những bệnh nhân đang thấm mật phúc mạc.
Suy gan cấp tính hoặc trong những mất bù của suy gan mạn tính (xơ gan).
Nhiễm trùng sâu, thông thường với nhiễm trùng máu chẳng hạn như những ổ áp xe sâu, những ổ hoại tử (viêm tuỵ hoại tử), nhiễm trùng dạ dày - ruột cấp tính và nhiễm trùng tiết niệu.
Trụỵ tim mạch cho dù là những nguyên nhân gì.
Biến chứng hậu phẫu.
Sau bỏng nặng.
Dùng nội soi để xác định chẩn đoán, thông thường là chỉ ra viêm dạ dày – tá tràng có nhiều tổn thương xuất huyết, chảy máu từng chỗ, viêm đỏ niêm mạc.
Trong một vài trường hợp thương tổn có thể khu trú vùng dưới tâm vị hoặc vùng hang vị.
Về điều trị: Chủ yếu là điều trị triệu chứng và bệnh nguyên.
Vỡ tĩnh mạch thực quản giãn do tăng áp lực tĩnh mạch cửa
Nguyên nhân của tăng áp cửa thông thường do xơ gan, nghiện rượu. Vấn đề chẩn đoán dựa vào khám lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng. Mức độ suy gan tuỳ thuộc vào phân loại của CHILD hay của PUGH để cho phép có thái độ trị liệu thích hợp và có tiên lượng trước mắt và lâu dài.
Chẩn đoán: Dựa vào lâm sàng. Chẩn đoán xác định chủ yếu bằng nội soi.
Trong 5% trường hợp chảy máu có thể ở tĩnh mạch giãn của dạ dày trong vùng tâm vị hoặc phình vị lớn
Điều trị: Bao gồm điều trị cấp cứu chảy máu bằng sonde Blakemore và điều trị dự phòng nếu tái phát bằng phẫu thuật. Ngoài ra người ta còn dùng phương pháp tiêm xơ bằng somatostatin.
Trào ngược dạ dày - thực quản-thoát vị thực quản
Đây là nguyên nhân thứ tư gây xuất huyết tiêu hóa cao.
Hội chứng Mallory-Weiss: Là do rách niêm mạc dạ dày ở chỗ nối tâm vị do cố sức để nôn ở những bệnh nhân có thoát vị khe hoành bởi sự trượt ở lỗ tâm hoành hay bất thường về vị trí của vùng tâm vị và phình vị lớn. Vấn đề chẩn đoán dựa vào lâm sàng, hỏi bệnh và dùng nội soi. Điều trị có thể bằng tiêm xơ qua nội soi, khâu chỗ rách, phẫu thuật chống trào ngược.
Viêm thực quản: Những viêm thực quản hoại tử với dạng loét nông, phục hồi rất tốt với điều trị nội khoa
Loét thực quản Barrett: Là do định vị lạc chỗ của niêm mạc dạ dày ở vùng dưới thực quản bị loét do trào ngược. Ít tác dụng với điều trị nội khoa, do đó phải can thiệp phẫu thuật, thông thường cắt bỏ đoạn loét và nối thực quản với dạ dày.
Xuất huyết tiêu hoá thấp
Xuất huyết nặng
Thường có các nguyên nhân sau:
Loét do nhiệt (ulcération thermometrique): Ở những bệnh nhân kẹp nhiệt độ hậu môn hằng ngày, điều trị là khâu lại chỗ loét bằng soi hậu môn và gây tê.
Viêm đại tràng chảy máu.
Vỡ búi trĩ: Phải loại trừ nguyên nhân khác, nhất là ung thư đại - trực tràng tiềm tàng.
Xuất huyết túi thừa của đại tràng sigma. Vấn đề chẩn đoán nhờ chụp động mạch mạc treo tràng hoặc soi đại tràng. Điều trị ngoại khoa cấp cứu hoặc trì hoãn.
Viêm túi thừa Meckel chảy máu.
Xuất huyết tiêu hóa vừa hoặc nhẹ
Nó có thể tự cầm máu hoặc nhờ điều trị nội khoa, nguyên nhân có thể do:
Bệnh lý của trực tràng, đại tràng
U lành tính.
Ung thư.
Bệnh Crohn.
Loét trực tràng hậu môn, nứt kẽ hậu môn chảy máu.
Bệnh lý ruột non: U lành tính hay ác tính ruột non và loét ruột non do loét.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh học ngoại lao xương
Lao xương giống viêm xương là hay gây tổn thương ở người trẻ, nhưng khác viêm xương, tổn thương của lao thường bắt đầu ở xương xốp sau đó lan ra xung quanh.
Bệnh học ngoại khoa thoát vị đùi
Khi lỗ thoát vị đùi ở vị trí này phải chú ý: Phía ngoài cổ túi có tĩnh mạch đùi và phía trên cổ túi có động mạch thượng vị và nhánh nối động mạch thượng vị với mạch bịt.
Bệnh học ngoại nhiễm khuẩn tiết niệu
Nhiễm khuẩn tiết niệu không đặc hiệu (Non- specific infection) là loại nhiễm khuẩn thường gặp của đường tiết niệu do các loại trực khuẩn gram (-) hoặc cầu khuẩn gram (+) gây nên.
Bệnh học ngoại khoa thoát vị bẹn
Thoát vị là tình trạng các tạng bên trong ổ phúc mạc đi ra ngoài ổ phúc mạc trong một túi thừa phúc mạc gọi là “túi thoát vị”, qua các điểm yếu tự nhiên của thành bụng. Các điểm yếu này có thể là bẩm sinh hay mắc phải.
Bệnh học ngoại vết thương ngực
Các rối loạn hô hấp tuần hoàn trong vết thương ngực hở do hậu quả hô hấp đảo ngược và lắc lư trung thất dẫn đến thiếu O2 trầm trọng, tình trạng toàn thân của bệnh nhân thay đổi nhanh chóng.
Bệnh học ngoại ống phúc tinh mạc
Sự tồn tại của ống phúc tinh mạc là một loại bệnh lý rất thường gặp ở trẻ em mà bệnh cảnh lâm sàng thường biểu hiện bằng hai hình thái: Hình thái cấp tính đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật như thoát vị bẹn.
Bệnh học ngoại khoa ung thư dạ dày
Ung thư dạ dày là một trong những ung thư ống tiêu hóa thường gặp, trong thực tế tiên lượng vẫn không thay đổi nhiều từ nhiều năm nay. Thời gian sống đến 5 năm của ung thư dạ dày khoảng 15% và thời gian sống 5 năm sau phẫu thuật triệt căn khoảng 30%.
Bệnh học ngoại chấn thương thận
Chấn thương thận bao gồm tất cả các thương tổn của nhu mô thận, đường bài xuất nước tiểu trên và cuống thận. Giới nam thường bị hơn nữ, chiếm 75-80%, do đặc trưng về nguyên nhân của loại chấn thương này.
Bệnh học ngoại khoa vết thương thấu bụng
Thực tế khi có vết thương trực tiếp vào thành bụng mà không xuất hiện hội chứng mất máu cấp tính hoặc hội chứng viêm phúc mạc, chúng ta chỉ cần mở rộng thăm dò tổn thương thành bụng.
Bệnh học ngoại chấn thương cột sống
Chấn thương cột sống nói chung chiếm khoảng 4-6% so với tất cả các chấn thương. Trong thực tế khám chấn thương cột sống là khám tổn thương ở đốt sống, đĩa đệm, dây chằng.
Chẩn đoán độ sâu của tổn thương bỏng
Có rất nhiều phương pháp chẩn đoán diện tích, độ sâu của tổn thương bỏng, cùng với sự phát triên khoa học và công nghệ. Trong phạm vi bài giảng, chỉ đề cập những phương pháp cơ bản, dễ áp dụng trong thực tế.
Bệnh học ngoại khoa sỏi ống mật chủ
Khi tắc mật, dịch mật không xuống tá tràng mà ứ đọng trong gan. Sắc tố mật, muối mật vào máu, bilirubin máu tăng cao, do sắc tố mật có màu vàng nên da, giác mạc mắt có màu vàng.
Bệnh học ngoại viêm xương
Viêm xương có thể tự nhiên, nhưng chấn thương đóng vai trò nào đó của sự khu trú tắc mạch xương trên một cơ quan bị nhiễm khuẩn.
Lâm sàng và điều trị thời kỳ suy mòn của bệnh bỏng
Nếu tính cả thải Protein qua phân, nước tiểu... mất Protein có thể đạt tới 100-200g/24h. Bỏng sâu mất Protein qua vết bỏng đạt 10mg/cm2/24h.
Bệnh học ngoại khoa viêm ruột thừa cấp
Viêm ruột thừa cấp là một trong những bệnh lý cấp cứu ngoại khoa hay gặp nhất. Tần suất viêm ruột thừa cấp song hành với tần suất của quá trình phát triển của mô bạch huyết, với tỷ lệ cao nhất ở giai đoạn đầu của thập niên.
Bệnh học ngoại ung thư bàng quang
U bàng quang là loại u thường gặp nhất trong các loại u đường tiết niệu. Theo Hội ung thư Mỹ, thì năm 1994 có khoảng 51.200 bệnh nhân mới, và đã có khoảng 10.600 bệnh nhân tử vong.
Bệnh học ngoại dị dạng bẩm sinh vùng rốn
Thoát vị cuống rốn là một dị dạng bẩm sinh trong đó một số tạng bụng trồi ra ngoài ổ bụng qua lỗ hổng của vành đai rốn tạo thành một khối phình được bọc kín bởi lớp phúc mạc nguyên thuỷ và lớp màng ối ở vùng rốn.
Bệnh học ngoại u trung thất
U trung thất là một khối u có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của trung thất. Bao gồm khối u nguyên phát, thứ phát; lành ác. Bệnh lý hay gặp nhất là u tuyến ức, u thần kinh, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới.
Công tác thay băng điều trị bỏng
Tuỳ theo tình trạng của vết thương, nếu vết thương diện rộng, nhiều dịch mủ, thay băng hàng ngày, nếu diện hẹp, ít mủ thay băng hai ngày một lần 2. kỹ thuật thay băng.
Bệnh học ngoại phình đại tràng bẩm sinh (Hirschsprung)
Bệnh Hirschsprung có thể có biểu hiện lâm sàng rất sớm ở trẻ sơ sinh bằng bệnh cảnh tắc ruột cấp tính dễ đưa đến tử vong nếu không can thiệp kịp thời hoặc có biểu hiện bán cấp tính và mạn tính ở trẻ nhũ nhi.
Bệnh học ngoại chấn thương niệu đạo
Khi dương vật mềm, niệu đạo dài khoảng 16cm, trong đó, đoạn tiền liệt tuyến dài khoảng 2,5-3cm, đoạn màng khoảng 1,2cm và đoạn xốp khoảng 12cm.
Bệnh học ngoại gẫy cổ xương đùi
Gãy cổ xương đùi là các trường hợp gãy xương mà đường gãy là ở giữa chỏm và khối mấu chuyển. Thường gặp đối với người già, cho dù là một chấn thương nhẹ (như té đập mông). Rất hiếm gặp ở người trẻ và trẻ em.
Bệnh học ngoại khoa áp xe gan amip
Áp xe gan là loại bệnh đã được nghiên cứu từ hơn một thế kỷ nay. Triệu chứng thường điển hình với sốt, gan to, đau. Áp xe gan do amíp thường chỉ có một ổ.
Bệnh học bỏng trẻ em
Tính diện tích bỏng dựa theo bảng của Lund và Browder hoặc của Berkow chia bề mặt các phần cơ thể thành các đơn vị diện tích phù hợp với tuổi nhằm giúp chẩn đoán chính xác diện tích bỏng.
Bệnh học ngoại chấn thương mạch máu ngoại biên
Hậu quả lâm sàng của chấn thương động mạch không hằng định, nhưng khi có hậu quả trên lâm sàng là một tiêu chuẩn nặng của chấn thương động mạch.