Xử trí thời kỳ đầu vết thương bỏng

2013-07-09 09:38 PM

Ngâm vùng bỏng vào nước lạnh (16-200C) trong vòng 20-30 phút. Đặc biệt có hiệu quả trong 20 phút đầu, nếu để sau 30 phút mới ngâm nước lạnh thì không còn giá trị nữa.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Xử trí tại chỗ vết thương bỏng kỳ đầu

Mục đích

Loại trừ các tác nhân gây bỏng còn lại ở vết bỏng, chất bẩn, dị vật nếu có. Chẩn đoán diện tích và độ sâu của bỏng.

Đưa thuốc vaò điều trị tại chỗ.

Yêu cầu

Càng sớm càng tốt, không gây đau đớn thêm cho bệnh nhân.

Đảm bảo vô khuẩn, thao tác nhẹ nhàng tỷ mỷ.

Chống chỉ định

Khi có sốc hoặc đe doạ sốc.

Các bước tiến hành

Ngay khi bị bỏng:

Ngâm vùng bỏng vào nước lạnh (16-200C) trong vòng 20-30 phút. Đặc biệt có hiệu quả trong 20 phút đầu, nếu để sau 30 phút mới ngâm nước lạnh thì không còn giá trị nữa.

Băng ép chặt vừa phải vùng bị bỏng (để hạn chế sự phát triển của dịch nốt phỏng và phù nề vùng bỏng).

Nếu bị bỏng hoá chất phải dùng các chất để trung hoà.          

Xử trí bỏng tại tuyến cơ sở:

Giảm đau: Nếu bỏng diện rộng thì dùng thuốc gây mê để thay băng. Thuốc thường dùng là Ketalar (ketamine) 10 mg/kg tiêm bắp thịt, 2 mg/kg tiêm tĩnh mạch.

Thuốc giảm đau:

Dolacgan 0,1. 1ống.

Pipolfen 0,05.1ống.

Tiêm bắp trước thay băng 15 phút.

Đối với trẻ em phải giảm liều theo cân nặng.

Nguyên tắc thay băng:

Đảm bảo vô khuẩn:

Phải thay băng ở các buồng băng vô khuẩn.

Nhân viên thay băng phải mặc quần áo, mũ công tác, đeo khẩu trang đã hấp, rửa tay theo qui định vô khuẩn, đi găng tay đã hấp.

Dụng cụ, phương tiện, vật liệu thay băng đều được tiệt khuẩn.

Người bệnh: trước khi cởi băng  phải lau sạch các phần không bị bỏng, cởi bỏ quần áo bẩn ở buồng bệnh trước khi vào buồng băng.

Khi rửa vết thương tuân theo các qui định sau:

Rửa từ vùng sạch- vùng bẩn (đầu, măt rửa trước, vùng bàn chân, tầng sinh môn rửa sau cùng).

Vùng da lành xung quanh vết bỏng rửa bằng nước đun sôi để nguội và nước xà phòng (1 lít nước sôi + 5 gam xà phòng để nguội), lau khô rồi bôi cồn iôd hoặc cồn 700.

Tại vùng bỏng rửa bằng nước xà phòng đã pha, rửa lại bằng dung dịch NMSL 0,9%, lấy bỏ dị vật, cắt bỏ vòm nốt phỏng, lấy bỏ phần da hoại tử. Rửa lại bằng NMSL 0,9% thấm khô.

Chẩn đoán diện tích độ sâu của bỏng, đưa thuốc vào điều trị tại chỗ.

Để hở: vùng mặt. tầng sinh môn, bỏng độ IV hoại tử khô- bôi thuốc đỏ.

Để bán hở: bỏng độ II, sạch không nhiễm khuẩn.

Bôi thuốc tạo màng đối với bỏng độ II, III đến sớm chưa nhiễm khuẩn. (không bôi ở vùng mặt, khớp vận động, tầng sinh môn, đầu chi).

Băng kín vết bỏng đến muộn, đã nhiễm khuẩn, bỏng có hoại tử ướt, đắp gạc kháng sinh, thuốc đắp tại chỗ, đặt gạc khô, băng hút nước, băng kín.

Xử trí một số tác nhân gây bỏng hay gặp

Bỏng do vôi tôi nóng:

Rửa bằng dung dịch NMSL 0,9%

Rửa lại bằng dung dịch NH4CL: 3%, 5%.

Ca(OH)2 + 2 NH4CL ---->  CaCL2+ 2NH4OH.

Cắt bỏ vòm nốt phỏng, gắp bỏ dị vật, rửa lại bằng NMSL 0,9%.

Đặt gạc tẩm dung dịch axit nhẹ như: axit Bôric 3%, a.Axêtic 6%, dấm thanh, nước vắt quả chanh, đường... Đặt gạc khô, băng kín lại.

Xử trí bỏng do axit:

Dùng dung dịch bazơ nhẹ để trung hoà như dung dịch Natri Bicacbonat 10-20%, nước xà phòng, nước vôi 5%.

Tẩm dung dịch bazơ vào gạc đắp vào vùng bỏng, đặt gạc khô băng kín.

H2SO4 dùng Magesulphat rắc vào vết bỏng hoặc tiêm Gluconat dưới vết bỏng.

Cacbonic dùng dầu thảo mộc, Glycerin, rượu, cồn để rửa.

Fenic, Phenol dùng dầu thảo mộc đắp và băng lại.

Công tác thay băng bỏng

Mục đích

Loại trừ dịch mủ đọng ở vết bỏng, cắt bỏ mô hoại tử, rửa sạch vết thương bỏng.

Đưa thuốc vào điều trị tại chỗ, bổ sung chẩn đoán.

Yêu cầu

Đảm bảo vô khuẩn, chống lây chéo, nhẹ nhàng tỷ mỷ.

Chống đau đớn, không gây chảy máu hoặc làm bong mảnh da ghép.

Chỉ định thay băng

Thay băng thường kỳ:

Tuỳ theo tình trạng của vết thương, nếu vết thương diện rộng nhiều dịch mủ, thay băng hàng ngày, nếu diện hẹp, ít mủ thay băng cách ngày.

Đối với vết bỏng đã bôi thuốc tạo màng:

Nếu màng khô thì để tự khỏi.

Nếu nhiễm trùng dưới màng thuốc thì dùng kéo cắt bỏ màng thuốc bị  nhiễm trùng, rửa sạch bằng NMSL 0,9% và đắp gạc thuốc vào vùng cắt màng.

Đối với vết bỏng đã bôi thuốc tạo màng:

Nếu khô thì không xử trí gì.

Nếu ướt thì rửa sạch bằng NMSL 0,9% và tiếp tục bôi thuốc đỏ để hở.

Đối với vết bỏng để gạc bán hở:

Nếu khô thì không xử trí gì để hở tự khỏi.

Nếu ướt dùng kéo cắt bỏ gạc bị ướt, rửa sạch và đắp một lớp gạc thuốc để bán hở.

Những qui định về vô khuẩn trong thay băng:

Sau khi thay băng cho một bệnh nhân, phải ngâm rửa lại tay, mỗi bệnh nhân phải dùng khẩu phần thay băng riêng để tránh lây chéo.

Khẩu phần thay băng gồm: 2 khay quả đậu, 2 nỉa (1 nỉa có mấu, 1 nỉa không có mấu), 1 kéo cong, bông băng, gạc, thuốc vừa đủ, tất cả đều được hấp sấy vô trùng.

Thứ tự bệnh nhân vào thay băng:

Ưu tiên những bệnh nhân cần xử trí kỳ đầu, bệnh nhân sau ghép da, tiếp theo là bệnh nhân có diện tích bỏng hẹp, dịch ít mủ, rồi đến những bệnh nhân có vết bỏng rộng, cuối cùng là những bệnh nhân có nhiễm khuẩn nặng.

Đưa bệnh nhân tới buồng băng, trừ bệnh nhân bỏng nặng, có bàn và kíp thay bằng di động.

Người hữu khuẩn: chuyển bệnh nhân đến buồng băng, và chuyển bệnh nhân về buồng bệnh, dùng nỉa, kéo tháo băng và gạc ngoài. Dội NMSL 0,9% hoặc thuốc tím loãng cho ẩm gạc, giúp việc cho người vô trùng, băng bó vết thương đúng kỹ thuật.

Kỹ thuật thay băng:

Dùng 2 nỉa nhẹ nhàng bóc lớp gạc bên trong ra, sao cho miếng gạc phải song song với mặt da. Dùng nỉa có mấu cặp bông cầu đã vắt nước sao cho thiết diện của bông khi chấm vết thương được nhiều mà mũi nỉa không chạm vào vết thương.

Chú ý không để gây chảy máu, ảnh hưởng đến mảnh da ghép, nếu mảnh da ghép  bong ra phải đặt lại.

Dùng gạc cầu  thấm nhẹ nhàng vết thương, lấy bỏ giả mạc, cắt bỏ hoại tử, rửa lại vết thương cho sạch, nếu thấy chảy máu phải đặt gạc tẩm dung dịch CaCl2 10%, hoặc nước muối ấm hay dung dịch Adrenalin pha.

Đặt gạc thuốc hoặc bôi thuốc trực tiếp (theo chỉ định của bác sỹ), sau đó đắp gạc hút nước (nếu là vùng ghép da thêm một gạc Parafin). Lớp gạc sau chờm lên lớp gạc trước 1cm. Độ dày của gạc tuỳ thuộc vào sự tiết dịch, mủ của vết thương.

Đối với mô hạt chuẩn bị ghép da không đắp dầu mỡ trực tiếp lên ô hạt từ 3-5 ngày trước mổ.

Các thuốc thường sử dụng ở buồng băng

Dạng dung dịch:

Gồm NMSL 0,9%. Becberin 0,1%. a.Boric 3%, Nitrat bạc 0,25%, 10%, CuSO4 5%, thuốc đỏ, cồn iod, nước nghệ ép, nước muối 5%, Betadin 10%...

Dạng mỡ, dầu:

Mỡ cao vàng, mỡ Vaselin, mỡ kháng sinh, Chitosan...

Dạng cao bột:

Sến, soan trà, bột B76, bột a.Boric...

Thay băng sau mổ

Ghép da mảnh: thay băng 1 ngày 1 lần, nếu sạch 2 ngày 1 lần.

Ghép da WK: sau 7 ngày thay băng kỳ đầu, 9-12 ngày cắt chỉ.

Chuyển vạt da: sau 5-7 ngày thay băng kỳ đầu.

Ghép vạt da ý: 3-4 ngày thay băng kỳ đầu, nếu nhiều dịch mủ 1-2 ngày thay băng 1 lần.

Trụ Filatop: 3-5 ngày thay băng kỳ đầu sau mổ.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh học ngoại phình đại tràng bẩm sinh (Hirschsprung)

Bệnh Hirschsprung có thể có biểu hiện lâm sàng rất sớm ở trẻ sơ sinh bằng bệnh cảnh tắc ruột cấp tính dễ đưa đến tử vong nếu không can thiệp kịp thời hoặc có biểu hiện bán cấp tính và mạn tính ở trẻ nhũ nhi.

Bệnh học ngoại ung thư bàng quang

U bàng quang là loại u thường gặp nhất trong các loại u đường tiết niệu. Theo Hội ung thư Mỹ, thì năm 1994 có khoảng 51.200 bệnh nhân mới, và đã  có khoảng 10.600 bệnh nhân tử vong.

Hội chứng Dumping trong phẫu thuật dạ dày

Hội chứng Dumping là một nhóm các triệu chứng có thể xảy ra nếu bn có phẫu thuật để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần của dạ dày, hoặc nếu dạ dày của bệnh nhân đã được phẫu thuật nối tắt để giúp giảm cân.

Bệnh học ngoại khoa bỏng

Bỏng là một chấn thương gặp trong cả thời bình và thời chiến. Trong chiến tranh tỷ lệ bỏng chiếm từ 3-10% tổng số người bị thương. Ở Mỹ một năm theo báo cáo có hơn 2 triệu người bị bỏng, trong đó khoảng 100.000 người phải nhập viện

Bệnh học ngoại khoa tắc ruột

Tắc ruột do liệt ruột gặp trong các trường hợp: sỏi tiết niệu, chấn thương cột sống hoặc khung chậu (tụ máu sau phúc mạc), viêm phúc mạc, viêm phúc mạc mật, tràn dịch tiêu hóa hoặc dịch tụy trong ổ phúc mạc.

Bệnh học ngoại u não

U não là một từ ngữ được các thầy thuốc lâm sàng gọi tên có tính cách quy  ước để chỉ các u trong sọ vì thực sự u trong mô não chỉ chiếm trên dưới 50% u trong sọ.

Bệnh học ngoại u xơ tiền liệt tuyến

U xơ tiền liệt tuyến là một loại u lành tính thường gặp trong bệnh lý của hệ tiết niệu và thường xuất hiện ở nam giới lớn tuổi. Mặc dù có thể thấy u xơ tiền liệt tuyến xuất hiện ở người trẻ < 30 tuổi, nhưng chủ yếu là ở nam giới trên 60 tuổi.

Bệnh học ngoại khoa ung thư gan

Ung thư gan nguyên phát ở các nước Âu - Mỹ rất hiếm gặp chiếm khoảng 1-2% các loại ung thư. Trong khi châu á, Phi rất hay gặp. Đây là loại ung thư tiến triển rất nhanh và điều trị đang còn gặp nhiều khó khăn.

Bệnh học ngoại khoa ung thư đại tràng

Ung thư đại  tràng là loại ung thư hay gặp đứng  hàng  thứ hai trong các  loại ung thư đường  tiêu hoá  và  là  một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong  do ung thư nói  chung.

Bệnh học ngoại gẫy cổ xương đùi

Gãy cổ xương  đùi là các trường hợp gãy xương mà đường gãy là ở giữa chỏm và khối mấu chuyển. Thường gặp đối với người già, cho dù là một chấn thương nhẹ (như té đập mông). Rất hiếm gặp ở người trẻ và trẻ em.

Dấu hiệu triệu chứng lâm sàng sốc bỏng

Do thoát dịch, huyết tương từ lòng mạch ra khoảng gian bào, Nguyên nhân do tổn thương mao mạch, rối loạn vi tuần hoàn gây giãn mạch, tăng tính thấm

Bệnh học ngoại khoa xuất huyết tiêu hóa

Xuất huyết tiêu hoá được định nghĩa là sự đào thải qua đường miệng và hay là qua đường đường hậu môn một số lượng máu từ các thương tổn của  đường tiêu hoá.

Bệnh học ngoại viêm xương

Viêm xương có thể tự nhiên, nhưng chấn thương đóng vai trò nào đó của sự khu trú tắc mạch xương trên một cơ quan bị nhiễm khuẩn.

Công tác thay băng điều trị bỏng

Tuỳ theo tình trạng của vết thương, nếu vết thương diện rộng, nhiều dịch mủ, thay băng hàng ngày, nếu diện hẹp, ít mủ thay băng  hai ngày một lần 2. kỹ thuật thay băng.

Bệnh học ngoại lồng ruột cấp ở trẻ còn bú

Lồng ruột thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn ở bé gái (2/1) trong độ tuổi bú  mẹ cao nhất là từ 4 - 8 tháng. Tỷ lệ gặp thấp hơn sau 1 - 2 tuổi và hiếm gặp ở trẻ lớn.

Bệnh học ngoại u trung thất

U trung thất là một khối u có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của trung thất. Bao  gồm khối u nguyên phát, thứ phát; lành ác. Bệnh lý hay gặp nhất là u tuyến ức, u thần kinh, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới.

Bệnh học ngoại khoa thủng dạ dày tá tràng

Thủng ổ loét dạ dày - tá tràng là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Chẩn đoán thường dễ vì trong đa số trường hợp các  triệu chứng khá điển hình, rõ rệt.

Bệnh học ngoại khoa teo thực quản

Bệnh teo thực quản là hậu quả của rối loạn trong quá trình tạo phôi giữa tuần thứ 4 và tuần thứ 6, điều này giải thích cho hiện tượng teo thực quản thường kèm theo nhiều dị tật phối hợp khác.

Bệnh học ngoại ống phúc tinh mạc

Sự tồn tại của ống phúc tinh mạc là một loại bệnh lý rất thường gặp ở trẻ em  mà bệnh cảnh lâm sàng thường biểu hiện bằng hai hình thái: Hình thái cấp tính đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật như thoát vị bẹn.

Bệnh học ngoại khoa thoát vị đùi

Khi lỗ thoát vị đùi ở vị trí này phải chú ý: Phía ngoài cổ túi có tĩnh mạch đùi và phía trên cổ túi có động mạch thượng vị và nhánh nối động mạch thượng vị với mạch bịt.

Bệnh học ngoại ung thư thận

Ung thư thận chiếm 90% các loại u ác tính nguyên phát ở thận. Bệnh thường xuất hiện ở người lớn trên 40 tuổi, với tỉ lệ nam gấp 2 lần so với nữ giới. Ung  thư thận chiếm 1-2% toàn bộ các loại ung thư ở người lớn.

Bệnh học ngoại chấn thương thận

Chấn thương thận bao gồm tất cả các thương tổn của nhu mô thận, đường bài xuất  nước tiểu trên và cuống thận. Giới nam thường bị hơn nữ, chiếm 75-80%, do đặc trưng về nguyên nhân của loại chấn thương này.

Bệnh học ngoại gẫy xương cẳng chân

Gãy xương cẳng chân là các trường hợp gãy thân xương chày từ dưới hai lồi cầu đến trên mắt cá trong, có hoặc không kèm gãy xương mác từ cổ tới trên mắt cá ngoài.

Bệnh học ngoại khoa phi đại hẹp môn vị

Hẹp phì đại môn vị là một bệnh ngoại khoa thường gặp ở giữa độ tuổi sơ sinh và bú mẹ (3 tuần-6 tháng). Bệnh có biểu hiện lâm sàng bằng hội chứng nôn  do hẹp lòng môn vị bởi sự phì đại thái quá của lớp cơ vùng môn vị.

Sử dụng các loại da và vật liệu thay thế da trong bỏng

Giảm đau cho người bệnh. Hạn chế mất dịch, máu qua vết thương. Hạn chế nhiễm khuẩn vết bỏng. Kích thích biểu mô hoá ở bỏng nông, kích thích tạo mô hạt ở bỏng sâu.