- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm
- Vết thương do người và xúc vật cắn
Vết thương do người và xúc vật cắn
Vi khuẩn gây nhiễm khuẩn các vết cắn phụ thuộc vào súc vật cắn và thời điểm nhiễm khuẩn vết thương sau khi bị cắn, Pasteunrella multocida gây nhiễm khuẩn vết thương do chó và mèo cắn rất sớm
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhận định chung
Ở các vùng nông thôn mỗi ngày có khoảng 900 ca bị chó cắn đến phòng khám cấp cứu và khoảng 1% bệnh nhân đến trung tâm y tế để điều trị các vết thương do súc vật và người cắn. Vào những tháng mùa hè, người bị chó cắn nhiều nhất, đặc biệt là ở trẻ em. Bản thân bệnh nhân tự biết mình bị súc vật cắn, hầu hết các trường hợp đều có lý do (như bị cắn khi đang chơi với súc vật, bị cắn do hoảng sợ đột ngột nhìn thấy chó hoặc trêu chó lúc đang ngủ). Bỏ qua chi tiết bệnh sử về lý do cắn là rất quan trọng vì khi súc vật tấn công không có lý do thì thường là nó bị bệnh dại. Vết cắn do người chủ yếu gặp ở trẻ em khi đang chơi hoặc đánh nhau; ở người lớn bị cắn thường do say rượu hoặc cắn nhau trong lúc đánh nhau.
Các yếu tố như loại súc vật cắn, vị trí vết cắn, loại vết thương do cắn đều quan trọng, liên quan đến nhiễm khuẩn vết thương. Mèo cắn dễ nhiễm khuẩn hơn người cắn, khoảng 30 - 50% trong số các vết thương do mèo cắn sau đó bị nhiễm khuẩn. Nhiễm khuẩn vết thương do người cắn rất đa dạng: những vết do trẻ em cắn ít khi bị nhiễm khuẩn vì nông; còn vết cắn do người lớn bị nhiễm khuẩn từ 15 - 30%, đặc biệt là các vết thương khâu kín chiếm tỷ lệ nhiễm khuẩn cao. Chó cắn không rõ nguyên nhân nhiễm khuẩn khoảng 5%. Các vết cắn ở đầu, mặt, cổ ít nhiễm khuẩn hơn các vết cắn ở tứ chi. Các vết thương do châm bị nhiễm khuẩn nhiều hơn các vết rách, có lẽ do vết rách dễ rửa và dễ chăm sóc vết thương hơn.
Vi khuẩn gây nhiễm khuẩn các vết cắn phụ thuộc vào súc vật cắn và thời điểm nhiễm khuẩn vết thương sau khi bị cắn. Pasteunrella multocida gây nhiễm khuẩn vết thương do chó và mèo cắn rất sớm (trong vòng 24 giờ sau khi cắn). Bệnh khởi phát rầm rộ, nhanh chóng, sốt, rét run, viêm mô tế bào, viêm hạch tại chỗ. Cả hai loại vi khuẩn yếm khí và ái khí có trong miệng đều gây nhiễm khuẩn sớm vết thương do người cắn, thường kèm theo quá trình hoại tử nhanh chóng. Tụ cầu và liên cầu thường gây nhiễm khuẩn các vết thương muộn hơn (sau 24 giờ kể từ lúc bị cắn) đôi khi gặp cả các loại vi khuẩn khác. Một số loại vi khuẩn ký sinh trong miệng như Capnocytophaga canimorsus (thường gọi là vi khuẩn DF2) là vi khuẩn gram (-); Eikenelìa corrodens, một loại vi khuẩn gram (-) khác và các loài haemophílus, các pseudomonas, các vi khuẩn gram (-) khác đều có thể gây nhiễm khuẩn các vết cắn.
Chưa có trường hợp nào bị nhiễm HIV do lây từ người cắn sang.
Điều trị
Chăm sóc tại chỗ
Để giảm nguy cơ nhiễm khuẩn vết thương, phải rửa sạch, cắt lọc, loại bỏ các phần hoại tử của vết thương. Phải chụp X quang để phát hiện gãy xương và các dị vật. Khám cẩn thận để đánh giá mức độ của tổn thương (rách gân, xâm nhập khe khớp).
Khâu
Có thể khâu trong trường hợp đòi hỏi phải đóng kín vì lý do thẩm mỹ hoặc cơ học. Tuy nhiên, nếu vết thương đã nhiễm khuẩn thì không bao giờ được khâu kín, những vết thương ở bàn tay nói chung cũng không được khâu do hay nhiễm vi khuẩn yếm khí dẫn đến mất chức năng của bàn tay.
Kháng sinh dự phòng
Phải điều trị kháng sinh dự phòng trong những trường hợp bị cắn có nguy cơ như mèo cắn ở bất kỳ chỗ nào (cho dicloxacillin 0,5g, uống 4 lần/ngày, trong vòng 3 - 5 ngày) hoặc vết thương ở tay do súc vật hoặc người cắn (penicillin 0,5g đường uống, 4 lần/ngày trong vòng 3 - 5 ngày). Mặc dù dicloxacillin và penicillin được sử dụng với mục đích dự phòng nhưng phổ tác dụng của chúng rất hạn hẹp. Dựa vào tính chất vi khuẩn gây bệnh tại các vết thương như đã nêu trên, có một số thuốc mặc dù chưa được nghiên cứu đầy đủ nhưng có phổ tác dụng rộng và được chỉ định để điều trị dự phòng có hiệu quả tốt. Ví dụ như cefuroxin và amoxicillin - clavulanie acid. Những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, đặc biệt là những người đã cắt lách thường hay bị vãng khuẩn huyết hoặc nhiễm khuẩn huyết sau khi bị súc vật cắn và do vậy những bệnh nhân này bắt buộc phải được điều trị dự phòng.
Kháng sinh
Đối với những vết thương nhiễm khuẩn bắt buộc phải điều trị kháng sinh. Chỉ định kháng sinh đường tiêm hay đường uống, có cần phải điều trị tại bệnh viện không còn tùy thuộc từng trường hợp cụ thể. Nói chung, điều trị bằng penicillin hoặc tetracyclin cho P. multocida là tốt nhất. Đáp ứng kháng sinh chậm, cho nên phải điều trị kéo dài ít nhẩt là 2 - 3 tuần. Khi bị người cắn, nhất thiết phải điều trị tại bệnh viện bằng các cephalosporin thế hệ thứ ba như ceftizoxim hoặc ceftriaxon, đường tĩnh mạch. Do vi khuẩn gây nhiễm khuẩn các vết thương rất đa dạng, bắt buộc phải cấy vi khuẩn từ vết thương nhiễm khuẩn và điều chỉnh kháng sinh thích hợp, đặc biệt đối với những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị ban đầu.
Uốn ván và bệnh dại
Tất cả các bệnh nhân phải được tiêm phòng và theo dõi đối với bệnh uốn ván.
Bài viết cùng chuyên mục
Sốt phát ban thành dịch do chấy rận (do rickettsia)
Những yếu tố làm bệnh dễ lây truyền là sống đông người, chật chội, hạn hán, chiến tranh hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào chấy rận nhiều
Bệnh đậu do rickettsia
Bạch cầu giảm, nồng độ kháng thể tăng bằng phản ứng kết hợp bổ thể hoặc dùng phản ứng huỳnh quang gián tiếp sử dụng globulin kháng rickettsia liên hợp.
Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch
Những bệnh nhân bị cắt lách hoặc suy giảm chức năng lách không thể loại trừ được vi khuẩn trong dòng máu, dẫn đến tăng nguy cơ vãng khuẩn huyết bởi các vi khuẩn có vỏ.
Viêm dạ dày ruột do Escherichia Coli
Kháng sinh không có tác dụng, điều trị nâng đỡ là chủ yếu. Khi có tiêu chảy và hội chứng urê huyết - huyết tán đồng thời, cần nghĩ tới E. coli gây xuất huyết và phát hiện chúng.
Vãng khuẩn huyết do Salmonella
Đôi khi nhiễm khuẩn do salmonella có thể biểu hiện dưới dạng sốt kéo dài hoặc sốt tái phát có kèm vi khuẩn trong máu và có các ổ nhiễm khuẩn ở xương, khớp.
Sốt xuất huyết
Những người có triệu chứng giống như những triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết và những người đến từ vùng dịch tễ phải được cách ly để chẩn đoán vả điều trị triệu chứng.
Bệnh dịch hạch
Khởi bệnh đột ngột sốt cao, mệt nặng, nhịp tim nhanh, đau đầu và đau cơ dữ dội. Bệnh nhân trong tình trạng nặng, có thể thấy mê sảng.
Viêm màng não do lao
Ngay cả khi cấy cho kết quả âm tính cũng cần điều trị đủ liệu trình nếu lâm sàng có dấu hiệu gợi ý là viêm màng não.
Ho gà
Các triệu chứng bệnh ho gà thường kéo dài 6 tuần và diễn biến theo 3 giai đoạn liên tiếp: giai đoạn viêm long ban đầu, có đặc điểm là khởi phát kín đáo.
Bệnh do virus cự bào
Biểu hiện bằng hội chứng vàng da sơ sinh, gan lách to, giảm tiểu cầu, calci hóa hệ thống thần kinh trung ương ở vủng quanh não thất, chậm phát triển tâm thần, mất khả năng vận động, xuất huyết.
Nhiễm khuẩn da và mô mềm do tụ cầu vàng
Viêm da do tụ cầu vàng thường khởi đầu quanh một hay nhiều ổ viêm nang lông, và có thể khu trú để tạo thành nhọt hoặc lan rộng đến vùng da lân cận và tới các mô sâu dưới da tạo thành ung nhọt lớn.
Các bệnh do nấm Actinomyces
Đây là các vi khuẩn dạng sợi phân nhánh gram + kỵ khí, có đường kính khoảng 1µm và có thể phân chia thành dạng trực khuẩn. Khi vào trong các mô của vết thương.
Bệnh do vi rút
Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang thường sử dụng các kháng thể đơn dòng cũng giúp chẩn đoán nhanh một số kháng nguyên trong những tế bào bong vẩy.
Dengue: bệnh virus toàn thân
Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong.
Những virus ái tính với tế bào lympho T ở người (HTLV)
Corticosteroid điều trị thành công bệnh tủy sống do HTLV gây ra. Những thuốc kháng virus không thấy có tác dụng rõ ràng trong điều trị bệnh lý tủy sống do HTVL và hoặc ATL.
Sốt do ve
Ở Mỹ, trong 10 năm có 67 trường hợp bị bệnh được phát hiện, phần lớn trong số đó là đi du lịch về từ châu Phi, gồm cả Somalia. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, huyết thanh lọc và kỹ thuật PCR.
Bệnh do Chlamydia pneumoniae chủng TWAR
Chlamydia pneumoniae gây viêm phổi, viêm phế quản và có mối liên quan với bệnh mạch vành qua dịch tễ huyết thanh học. Bệnh cảnh viêm phổi kiểu không điển hình.
Bệnh phong
Bệnh được phân thành 2 thể theo lâm sàng và mô bệnh học: thể lan tỏa và thể củ. Thể lan toả gặp ở người có suy giảm miễn dịch tế bào.
Các loại bệnh do Campylobacte gây ra
C. fetus gây bệnh toàn thân, thậm chí có thể gây tử vong như nhiễm khuẩn huyết tiên phát, viêm nội tâm mạc, viêm màng não, áp xe khu trú.
Bệnh bạch hầu
Có thể gặp các thể bệnh ở mũi, họng, thanh quản và ở da. Nhiễm khuẩn ở mũi có rất ít triệu chứng, chủ yếu là chảy nước mũi.
Ngộ độc Clostridium botulinum
Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.
Viêm màng não do não mô cầu
Sốt cao, rét run, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau đầu chi, buồn nôn và nôn đều có thể gặp. Khi bệnh nặng, bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê.
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục
Với mỗi bệnh nhân có một hoặc nhiều lần quan hệ tình dục thì đều phải được chẩn đoán và điều trị theo nguyên tắc là bạn tình phải được điều trị đồng thời để tránh khả năng tái nhiễm.
Bệnh bại liệt
Suy hô hấp là hậu quả của liệt cơ hô hấp, tắc nghẽn đường hô hấp do tổn thương các nhân của dây thần kinh sọ, hoặc ổ thương trung hô hấp.
Sốt hồi quy
Vi khuẩn gây bệnh là một loại xoắn khuẩn, Borrelia recurrentis, mặc dù một số loại vi khuẩn chưa được nghiên cứu kỹ có thể gây ra bệnh tương tự.
