- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm
- Bệnh do vi rút
Bệnh do vi rút
Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang thường sử dụng các kháng thể đơn dòng cũng giúp chẩn đoán nhanh một số kháng nguyên trong những tế bào bong vẩy.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Chẩn đoán lâm sàng
Một số virus gây bệnh như sởi, quai bị, thủy đậu có biểu hiện trên lâm sàng rất điển hình. Tuy nhiên nhiều trường hợp, bệnh cảnh lâm sàng không đặc hiệu mà chỉ thể hiện là có nhiễm virus. Ví dụ: virus quai bị, virus viêm màng mạch màng não tăng lympho bào hoặc một số loại virus đường tiêu hóa có thể gây ra viêm màng não vô khuẩn. Các triệu chứng ở đường hô hấp do nhiều loại virus là không thể phân biệt được như ban đỏ, sổ mũi với ít mủ và bệnh mô kẽ khi có viêm phổi. Phát ban là triệu chứng của nhiễm virus chứ không đặc hiệu cho từng virus.
Xác định virus thường chỉ cần khi lâm sàng không điển hình, giúp khám phá sự bùng nổ vầ giải thích các hội chứng nhầm lẫn. Thông thường, mỗi loại virus sẽ gây ra một loại bệnh, vì thế có thể chẩn đoán được như virus hợp bào đường hô hấp (RSV) gây viêm tiểu phế quản, virus á cúm gây viêm thanh quản. Các ví dụ về chẩn đoán nhanh đã được áp dụng trong việc xử trí bệnh nhân sẽ được trình bày trong chương này.
Chẩn đoán xét nghiệm
Có 3 kỹ thuật xét nghiệm cơ bản được dùng để chẩn đoán nhiễm virus. Xác định virus bằng cách nhuộm (như tiêu bản Tzanck không đặc hiệu cho virus herpes), nuôi cấy tế bào (như nuôi cấy virus coxsackie trên chuột đang bú), phát hiện kháng thể (virus dại trên sinh thiết da), hoặc các kỹ thuật phân tử như phản ứng chuỗi polymerase (PCR). Phân lập virus từ những vị trí vô khuẩn của cơ thể (như dịch não tủy, phổi) hoặc từ tổn thương (mụn nước), ở những người không có suy giảm miễn dịch là rất có ý nghĩa cho chẩn đoán. Việc phân lập virus từ các vị trí hữu khuẩn (mũi, họng, phân) chỉ thể hiện là có nhiễm virus, còn biến đổi huyết thanh và thay đổi mô bệnh học mới giúp cho chẩn đoán.
Phương pháp dùng kính hiển vi
Các kỹ thuật kính hiển vi được dùng để quan sát tế bào, các dịch cơ thể, các mẫu bệnh phẩm lấy bằng sinh thiết hoặc chọc hút giúp tìm được virus hoặc những thay đổi về tế bào học đặc trưng cho một virus hoặc một nhóm virus (như tìm thấy tế bào khổng lồ đa nhân ở đáy tổn thương dọ virus herpes, quan sát được cấu trúc của rota virus bằng soi phân trên kính hiển vi điện tử.
Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang thường sử dụng các kháng thể đơn dòng cũng giúp chẩn đoán nhanh một số kháng nguyên trong những tế bào bong vẩy như virus dại, thủy đậu, herpes simple, virus hợp bào hô hấp.
Phương pháp huyết thanh miễn dịch
Trong quá trình bị bệnh các kháng thể đặc hiệu của virus tăng lên, mặc dù thời gian và sự tăng của hiệu giá kháng thể phụ thuộc vào virus. Nếu hiệu giá kháng thể tăng từ 4 lần trở lên trong quá trình bệnh thì rất có giá trị trong chẩn đoán.
Tìm khảng thể một lần thường ít giá trị mà cần xét nghiệm kháng thể hai lần (ở giai đoạn cấp và khi hồi phục, thường cách nhau 2 - 3 tuần).
Tìm kháng nguyên chỉ dùng cho một số loại virus (HBsAg, HCV, HIV), phát hiện sự hiện diện của virus trong quá trình mắc bệnh không cạn tính đến thời gian bị bệnh hoặc đáp ứng của cơ thể.
Các kỹ thuật phân tử
Công nghệ phân tử đã cung cấp một sốkỹ thuật như PCR và các thăm dò acid nhân. Những kỹ thuật này rất có giá trị trong phát hiện những virus gây bênh mới (như virus viêm gan c, virus hẹrpes gậy ung thư Kaposi) cũng như trong xử trí bệnh nhân trong đó xác định số lượng virus hoạt động giúp theo doi diễn biến lâm sàng hoặc đáp ứng với điều trị. Tuy nhiên, không thể sao chụp được các kết quả giữa các phòng xét nghiệm.
Điều trị
Nhiều thuốc điều trị virus được sử dụng rộng rãi do sự bùng nổ của virus HIV, nhưng nhiều virus còn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu.
Để phòng bệnh do virus gây ra thì chủ yếu là dùng vaccin. Các vaccin sống hiện đang được sử dụng bao gồm vaccin phòng các bệnh do các loại virus như sởi, quai bị, Rubeon, bại liệt (vaccin Sabin), sốt vàng, thủy đậu, viêm não Nhật Bản B và trong tương lai gần là vaccin phòng Rota virus. Các loại vaccin bật hoạt để phòng các bệnh do virus như: bại liệt (vaccln SaỊk), viêm gan A, viêm gạn B, virus hợp bào đường hô hấp (RSV). Dự phòng miễn dịch thụ động vẫn là phựơng pháp hàng đầu ngăn ngừa nhiễm virus dại, virus viêm gan A, viêm gan B, virus hợp bào đường hô hấp và virus thủy đậu ở những người suy giảm miễn dịch.
Bài viết cùng chuyên mục
Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch
Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.
Nhiễm khuẩn do Hemophilus influenzae
Ớ người lớn ít gặp chủng hemophilus tiết men β lactamase hơn ở trẻ em. Có thể điều trị với người lớn bị viêm xoang, viêm tai hay nhiễm khuẩn đường hô hấp bằng amoxicillin 500mg.
Test quá mẫn và giải mẫn cảm
Nếu phản ứng ở mức độ nhẹ xẩy ra thì dùng liều thấp hơn và tiếp tục giải mẫn cảm. Nếu phản ứng nặng hơn, cần dùng epinephrin và ngừng thuốc trừ khi việc điều trị là tối cần thiết.
Một số nhiễm khuẩn do liên cầu nhóm A
Mọi tình trạng nhiễm liên cầu, đặc biệt là viêm cân hoại tử đều có thể bị hội chứng sốc nhiễm độc tố liên cầu. Bệnh có đặc điểm là: viêm da hoặc viêm tổ chức phần mềm, suy hô hấp cấp, suy thận.
Dengue: bệnh virus toàn thân
Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong.
Sốt phát ban do mò truyền
Sốt phát ban do mò truyền bởi con Orientia tsutsugamushi. Đây là sinh vật ký sinh chủ yếu ở loài gặm nhâm truyền bệnh qua các con mò ở vùng có dịch tễ được trình bày ở trên.
Bệnh Hạ cam
Các biến chứng thường gặp là viêm quy đầu và viêm đầu dương vật. Cần chẩn đoán nốt loét hạ cam với các vết loét bệnh khác, đặc biệt là giang mai.
Bệnh tả
Điều trị bằng bù dịch khi bệnh nhẹ hoặc vừa thì uống dịch cũng đủ để làm giảm mạnh tỷ lệ tử vong ở các nước đang phát triển. Có thể tự pha lấy dịch.
Viêm màng não do phế cầu
Các chủng kháng penicillin lại thường có kháng chéo cả với cephalosporin thế hệ 3. Kháng sinh đồ là hết sức cần thiết trong những trường hợp như vậy.
Viêm màng não do não mô cầu
Sốt cao, rét run, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau đầu chi, buồn nôn và nôn đều có thể gặp. Khi bệnh nặng, bệnh nhân nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê.
Nhiễm virus Poxvirus
Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.
Ngộ độc Clostridium botulinum
Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.
Ỉa chảy ở người du lịch
Tránh dùng thức ăn và nguồn nước để lạnh dễ bị nhiễm bẩn ở những người du lịch tới các nước đang phát triển nơi mà bệnh ỉa chảy nhiễm khuẩn đang là dịch lưu hành.
Bệnh do vi khuẩn Listeria
Vi khuẩn huyết, có hoặc không có triệu chứng nhiễm khuẩn máu ở trẻ sơ sinh hoặc ở người lớn có suy giảm miễn dịch. Bệnh biểu hiện dưới dạng sốt không rõ nguồn gốc.
Quai bị
Nhậy cảm đau vùng mang tai và vùng mặt tương ứng phù nề là dấu hiệu thực thể hay gặp nhất. Đôi khi sưng ở một tuyến giảm hoàn toàn trước khi tuyến kia bắt đầu sưng.
Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch
Những bệnh nhân bị cắt lách hoặc suy giảm chức năng lách không thể loại trừ được vi khuẩn trong dòng máu, dẫn đến tăng nguy cơ vãng khuẩn huyết bởi các vi khuẩn có vỏ.
Sốt Q
Viêm nội tâm mạc ít gặp nhưng lại là thể nặng của nhiễm Coxiella và liên quan với tình trạng tổn thương miễn dịch, việc sống ở vùng thành thị, uống sữa tươi.
Viêm họng nhiễm khuẩn do liên cầu
Liên cầu tan huyết bê ta nhóm A là vi khuẩn gây viêm họng xuất tiết phổ biến nhất. Bệnh lây qua các giọt nước bọt có vi khuẩn.
Các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn kỵ khí
Dưới đây sẽ điểm qua các bệnh nhiễm khuẩn chủ yếu do các vi khuẩn kỵ khí gây ra. Điều trị chung cho các bệnh này bao gồm mổ thăm dò ngoại khoa, cắt lọc đủ rộng và dùng kháng sinh.
Bệnh đậu do rickettsia
Bạch cầu giảm, nồng độ kháng thể tăng bằng phản ứng kết hợp bổ thể hoặc dùng phản ứng huỳnh quang gián tiếp sử dụng globulin kháng rickettsia liên hợp.
Các loại bệnh do Campylobacte gây ra
C. fetus gây bệnh toàn thân, thậm chí có thể gây tử vong như nhiễm khuẩn huyết tiên phát, viêm nội tâm mạc, viêm màng não, áp xe khu trú.
Nhiễm virus herpes typ 6, 7, 8 (HHV)
Nhóm virus này có liên quan tới thải bỏ mảnh ghép và ức chế tủy xương ở người ghép tổ chức, gây viêm phổi và viêm não ở bệnh nhân AIDS.
Những hội chứng do virus epstein barr
Các virus herpes có khả năng làm biến đổi tế bào, khi nuôi cấy trong tổ chức và đi kèm với các bệnh ác tính như virus Epstein Barr gây u lympho Burkitt.
Bệnh do Leptospira
Nước tiểu có thể có sắc tố mật, protein, cặn và hồng cầu. Đái ít không phải là ít gặp và trong các trường hợp nặng tăng urê máu có thể xuất hiện.
Bệnh do Tularemia
Sốt, đau đầu và buồn nôn khởi phát đột ngột. Tại chỗ vết thương, nơi đường vào nổi sẩn hồng nhưng nhanh chóng trở thành vết loét. Hạch vùng sưng to, đau và có thể bị mưng mủ.