Lao phổi: chẩn đoán và điều trị

2016-10-08 11:17 AM

Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu để chẩn đoán

Mệt, sụt cân, sốt, ra mồ hôi ban đêm.

Ho có đờm. X quang phổi có hình thâm nhiễm.

Phản ứng bì với tuberculin dương tính (trong hầu hết các trường hợp).

Soi đờm trực tiếp có trực khuẩn kháng cồn kháng toan.

Cấy đờm có Mycobacterium tuberculosis

Nhận xét chung

Nhiễm M. tuberculosis bắt đầu khi người có cảm ứng với bệnh này hít phải các hạt nước bọt có chứa trực khuẩn lao sống. Tới phổi, chúng bị đại thực bào phế nang thực bào hoặc bị tiêu hủy hoặc vẫn tồn tại và nhân lên lan truyền theo đường bạch huyết và đường máu trước khi cơ thể có đáp ứng miễn dịch hữu hiệu vây bọc lại bằng các u hạt viêm nhiễm. Đó là lao tiên phát không có triệu chứng biểu hiên. Trong một số trường hợp, đáp ứng miễn dịch không đầy đủ sẽ gây ra lao tiên phát tiến triển biểu hiện bằng các triệu chứng ở phổi và triệu chứng toàn thân. Lây nhiễm theo đường máu từ ổ tiên phát khắp phổi (lao kê), tới khoang màng phổi (tràn dịch màng phổi lao) hay tới các vị trí ngoài phổi (màng não, xương) là biến chứng hiếm gặp của lao tiên phát. Trực khuẩn lao "ngủ" nhưng vẫn còn sống tồn tại nhiều năm và bệnh có thể tái hoạt ở bất cứ vị trí nào (ổ "phổi", ổ "Simon") nếu các cơ chế đề kháng của cơ thể giảm sút. Hầu hết lao ở người lớn là do bệnh lao tái hoạt (lao tái hoạt hay lao hậu tiên phát), không phải là nhiễm mới. Tỷ lệ bệnh nhân có biểu hiện không điển hình, đặc biệt ở người lớn tuổi, người nhiễm HIV giai đoạn muộn, chăm sóc tại nhà tăng lên. Lao ngoài phổi đặc biệt hay gặp ở người nhiễm HIV. Những người này thường có viêm hạch lympho hay lao kê.

Người nhiễm HIV thành AIDS hay chưa thành AIDS đều có nguy cơ cao bị mắc lao. Nhiễm HIV nổi lền như một yếu tố nguy cơ quan trọng nhất phát triển bệnh lao. Số mắc lao mới tăng lên đến mức báo động ở Hoa Kỳ từ 1986 có thể có phần đóng góp lớn của dịch HIV. Hầu hết các trường hợp mới bị lao xảy ra ở người HIV dương tính, người thiểu số, người di cư, tị nạn từ châu Á, Trung Mỹ và các tù nhân. Sự tăng dân số ở thành phố, thiếu nhà, lạm dụng thuốc, không được chăm sóc sức khỏe tốt làm cho lao dễ lan rộng.

Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị. Các yếu tố nguy cơ gây kháng thuốc bao gồm di dân ở nhiều vùng trên thế giới có tổng số người bị lao kháng thuốc cao, nhiễm HIV, bệnh phổi có hang, tiêm chích ma tuý, tiếp xúc lâu dài và gần gũi với người lao kháng thuốc, điều trị lao không kết qủa, người bệnh không hợp tác với thầy thuốc. Sự bùng nổ lao kháng nhiều thuốc trong các bệnh viện ở Florida và New York có tỷ lệ tử vong 72 - 89%, tỷ lệ sống trung bình 4 - 16 tuần. Tới 90% của trên 200 người được báo cáo là những người HIV dương tính.

Triệu chứng và dấu hiệu

Bệnh nhân lao tái hoạt điển hình có triệu chứng toàn thân mệt mỏi, sụt cân, chán ăn, sốt nhẹ, ra mồ hôi đêm. Các triệu chứng ở phổi có ho lúc đầu khan sau có đờm mủ và đôi khi lẫn máu. Đôi khi có thể không có triệu chứng. Khám thực thể thường là người ốm lâu ngày, sụt cân. Nghe phổi sau khi ho vùng đỉnh phổi có thể có tiếng ran hoặc không.

Xét nghiệm

Chẩn đoán xác định dựa vào việc phát hiện ra trực khuẩn lao trong đờm khi nuôi cấy hay xét nghiệm nhận dạng vi khuẩn bằng thử nghiệm ADN (PCR). Khi có đủ đờm thì tiến hành nhuộm trực tiếp và nuôi cấy. Nên làm 3 mẫu. Ở bệnh nhân không thể có mẫu đờm tốt một cách tự giác thì quy nạp đờm. Nhiều mẫu đờm thường là đòi hỏi của việc chẩn đoán tìm trực khuẩn lao. Phương pháp nhuộm huynh quang bằng fluorochrome rhodamine - auramine đờm là phương pháp sàng lọc đầu tiên, để xác định thì nhuộm Ziehl - Neelsen hay Kinyoun. Có trực khuẩn kháng acid khi soi trực tiếp cũng không xác định được lao vì có thể có các mycobacteria không gây lao hoại sinh cư trú ở đường hô hấp. Dương tính giả khi cấy đờm tìm trực khuẩn lao là rất hiếm.

Những bệnh nhân không có đờm xét nghiệm đờm âm tính mà vẫn nghi có lao thì có thể soi phế quản ống mềm. Rửa phế quản mẫu đờm lấy được sau khi soi phế quản có thể giúp cho chẩn đoán. Hoặc có thể hút dịch dạ dày buổi sáng. Dịch dạ dày chỉ thích hợp cho nuôi cấy không thích hợp khi cần soi nhuộm trực tiếp vì mycobacteria không gây lao có thể có trong dạ dầy. Cũng có thể cấy máu tìm trực khuẩn lao. Trực khuẩn lao nhiễm trong máu được báo cáo có trong 14% bệnh nhân lao.

Cấy tìm BK trên môi trường đặc phải mất 6 - 8 tuần mới xác định được phản ứng chuỗi polymerase cho phép phát hiện nhanh và phân biệt được trực khuẩn lao với các mycobacteria khác. Hệ thống cấy đo lượng phóng xạ (Bactec) có thể phát hiện trực khuẩn lao mọc trong ít ngày. Khi đã phát hiện được trực khuẩn lao qua nuôi cấy, cần thử độ nhạy của thuốc, vì các chủng trực khuẩn lao kháng thuốc ngày nay hay gặp nên việc thử độ nhạy được coi như thường qui khi phân lập được lần đầu trực khuẩn lao ở những bệnh nhân điều trị lao thất bại và ở những bệnh nhân sau 3 tháng điều trị cấy đờm BK vẫn dương tính. Kết qủa thử nghiệm độ nhạy của thuốc phải được thông báo cho cơ quan y tế.

Phương pháp ELISA chẩn đoán huyết thanh trong lao để đo kháng thể IgG chống kháng nguyên của trực khuẩn lao là một phương pháp mới, hứa hẹn để chuẩn hóa.các kỹ thuật nuôi cấy. Kinh nghiệm về phương pháp này còn giới hạn. Các kỹ thuật lấy dấu nhận dạng ADN dùng để nhận dạng chủng trực khuẩn lao của cá nhận người bệnh và phát hiện nhiễm lao truyền từ người này sang người khác như thế nào.

Ở người tràn dịch màng phổi do lao, làm sinh thiết bằng kim chọc màng phổi thấy ở 50 - 80% có u hạt. Cấy tìm BK trong dịch màng phổi dương tính dưới 25% các trường hợp.

Chẩn đoán hình ảnh

Vì thường lao tiên phát không có triệu chứng nên ít khi chụp X quang lồng ngực. Các hình ảnh X quang bất thường trong lao tiên phát đặc biệt giống như ở trẻ em, có những nốt thâm nhiễm nhỏ đồng đều (thường ở thùy trên), các hạch lympho quanh khí quản và rốn phổi rộng ra, có hình ảnh xẹp phân thùy. Có thể thấy tràn dịch màng phổi, đặc biệt ở người lớn, đôi khi là hình ảnh bất thường về X quang cơ bản. Các phức hợp Ghon (ổ tiên phát vôi hóa) và Rankè (ổ tiên phát với hóa và hạch lympho rốn phổi vôi hóa) là vết tích của lao tiên phát đã lành thấy ở số ít các bệnh nhân.

Lao tái hoạt hay lao hậu tiên phát có nhiều biểu hiện X quang: xơ hang đỉnh phổi, các hạch và thâm nhiễm phổi. Vị trí thường thấy là các phân thùy đỉnh và phân thùy sau của các thùy đỉnh hay các phân thùy trên của các thùy dưới của phổi; 30% số bệnh nhân có thể có các biểu hiện X quang của bệnh ở các vị trí khác. Đặc biệt ở người cao tuổi có các thâm nhiễm thùy dưới phổi và có hoặc không có tràn dịch ngày càng gặp nhiều. Lao vùng phổi thấp và lao trong khí quản có thể có dạng như viêm phổi hay ung thư phổi, ở bệnh nhân nhiễm HIV có lao phổi, các biểu hiện X quang của lao thay đổi theo các giai đoạn của nhiễm HIV. Ở các bệnh nhân HIV giai đoạn sớm các biểu hiện X quang của lao giống như của người không nhiễm HIV. Ngược lại ở các bệnh nhân nhiễm HIV giai đoạn muộn (AIDS) các hình ảnh X quang không điển hình chiếm ưu thế. Ở những bệnh nhân này tổn thương phổi thường ở các thùy dưới, lan tỏa hoặc các hình thâm nhiễm kẽ, tràn dịch màng phổi, các hạch lympho trung thất và rốn phổi nở rộng.

Các xét nghiệm đặc biệt

Thử nghiệm bì tuberculin cho biết người bệnh đã bị nhiễm trực khuẩn lao nhưng không cho biểt bệnh mới hay nhiễm cũ. Thử nghiệm Mantoux dùng để chẩn đoán lao cho cá thể còn thử nghiệm chọc nhiều mũi qua da (multiple puncture test) để sàng lọc trong quần thể cộng đồng. Trong thử nghiệm Mantoux dùng 0,1ml dẫn xuất protein tinh khiết chuẩn hóa (PPD-S) chứa 5 đơn vị tuberculin tiêm trong da ở mặt trong cánh tay bằng kim khẩu kính 27 và bơm tiêm tuberculin. Vùng cứng quanh nốt tiêm đo sau 48 - 72 giờ do người có kinh nghiệm đọc (đo bằng đơn vị mm). Có 2 nguyên tắc quan trọng cần nhớ: (1) phản ứng âm tính không loại trừ không có lao, (2) phản ứng càng rộng càng thể hiện nhiễm trực khuẩn lao lớn.

Các bệnh nhân huyết thanh chẩn đoán HIV dương tính nên được theo dõi thử nghiệm tuberculin một cách chặt chẽ. Cần biết rằng tiêu chuẩn của phản ứng bì có ý nghĩa ở người nhiễm HI V hoặc ở những người suy giảm miễn dịch tế bào là vùng cứng của phản ứng rộng 5mm hoặc hơn. Khi nhiễm HIV ở giai đoạn sớm (không có triệu chứng) phản ứng bì với tuberculin không bị ảnh hưởng. Người bệnh AIDS thường không có dị ứng.

Có thể xảy ra phản ứng tuberculin âm tính giả cũng như dương tính giả. Phản ứng dương tính giả khi nhiễm mycobacteria không gây lao. Phản ứng âm tính giả khi có nhiễm khuẩn cạnh tranh, suy dinh dưỡng, tuổi già, rối loạn miễn dịch, tình trạng ác tính của hệ võng lympho, điều trị corticosteroid, suy thận, chủng vaccin phòng virus, stress, lao bùng phát và kỹ thuật làm thử nghiệm không đúng.

Sự tăng phản ứng qúa mức thử nghiệm bì do cho làm thử nghiệm này nhiều lần có thể gây ấn tượng sai lầm về sự chuyển phản ứng vì sự cảm ứng của trực khuẩn lao ngủ được lập lại do thách thức kháng nguyên của thử nghiệm bì lần đầu tiên. Hiện tượng tăng phản ứng qúa mức này có thể tăng kích thước phản ứng khi lần sau làm thử nghiệm, thường gặp ở người trên 55 tuổi. Để xác định phản ứng tuberculin đã tăng qúa mức có thể làm thử nghiệm hai bước .Nếu thử nghiệm lần đầu âm tính có thể làm lại thử nghiệm một tuần sau. Nếu lần thứ hai âm tính tức là người bệnh không nhiễm lao hay mất phản ứng. Nếu dương tính, hầu như đó là phản ứng đã gia tăng. Hiệu qủa này tồn tại ít nhất một năm.

Tiêm vaccin.BCG có ảnh hưởng thay đổi đến thử nghiệm tuberculin. Tiền sử có tiệm chủng BCG không làm thay đổi cách đọc kết qủa thử nghiệm tuberculin. Một phản ứng của thử nghiệm da có ý nghĩa ở người đã tiêm chủng BCG được coi như có nhiễm trực, khuẩn lao.

Một phản ứng thử nghiệm da mất phản ứng nên đặt vào thời điểm thử nghiêm tuberculin nếu bệnh nhân được đánh giá là bị mất phản ứng vì lý do nào đó.

Bảng. Xếp loại các phàn ứng của thử nghiệm bì tuberculin dương tính (1, 2)

Kích thước phản ứng

Nhóm

≥ 5 mm

1. Người nhiễm HIV hay có nguy có nhiễm HIV.

2. Người có tiếp xúc chặt chẽ với người lao.

3. Người có hình ảnh đông đặc phổi trên phim X quang lao phổi đã khỏi cũ.

≥ 10mm

1. Cư dân ở các nước có độ lưu hành lao cao ở châu Á, châu Phi và Mỹ La Tinh.

2. Những người dùng ma túy đường tĩnh mạch.

3. Người ít được chăm sóc về y tế, người thu nhập thấp.

4. Người sống lâu dài trong các trại cải tạo, chữa tại nhà, trại tâm thần.

5. Người có nguy cơ mắc lao cao: cắt dạ dày, sụt hơn 10% thể trọng, nối hỗng - hồi tràng, đái tháo đường, bệnh bụi phổi silic, suy thận mạn, điều trị corticosteroid hay điều trị giảm miễn dịch, ung thư máu, u lympho và các bệnh ác tính khác.

≥ 15mm

6. Các cư dân có nguy cơ cao khác. Mọi người khác.

1. Khuyến cáo của Hội lồng ngực Mỹ: Am. Rev. Respir. Dis. 1990.142; 725.

2. Phản ứng của thừ nghiệm Mantoux, được coi là dưdng tính nếu đường kính ngang của vùng cứng khi tiêm xấp xỉ kích thước đòi hỏi của nhóm đặc hiệu. Mọi phản ứng khác được coi là âm tính.

Điều trị

Mọi trường hợp có thế bị lao hay có bằng chứng đã bị lao nên báo cáo với địa phương và y tế. Việc điều trị lao nên được hướng dẫn bởi các thầy thuốc có kinh nghiệm. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp lao kháng thuốc.

Nhập viện

Nhập viện để điều trị lao lúc đầu đối với hầu hết bệnh nhân không cần thiết trừ phi bệnh nhân không thể tự trông nom được hay đặt người đó vào tình thế có nguy cơ bị lao. Hàng tháng phải theo dõi sự hợp tác của người bệnh trong việc chữa trị đối với bệnh nhân ngoại trú, soi đờm trực tiếp, cấy đờm cho tới khi thay đổi kết qủa BK trở nên âm tính. Bệnh nhân nằm viện có buồng riêng, thoáng, giáo dục bệnh nhân khi ho che miệng.

Trị liệu thuốc

Trị liệu tiêu chuẩn lao phổi phải xem lại vì có sự gia tăng tổng số lao kháng thuốc ở Hoa Kỳ. Các yêu cầu về điều trị của các trung tâm kiểm soát và phòng bệnh CDC được tóm tắt trong bảng, liều lượng thuốc trong bảng đối với bệnh nhân không nhiễm HIV, CDC đưa ra 3 chế độ điều trị có thể chọn.

Chế độ thứ nhất có thể lựa chọn là chế độ dùng 4 loại thuốc là isoniazid, rifampin, pyrazinamid và ethambutol hoặc streptomycin. Điều trị hàng ngày hay 2 - 3 ngày mỗi tuần nếu bệnh nhân được theo dõi trực tiếp. Nếu nhạy cảm với isoniazid và rifampin thì ethambutol hoặc streptomycin có thể cho cách quãng. Pyrazinamid sau 8 tuần nên cho cách quãng. Tổng thời gian điều trị ít nhất là 6 tháng và ít nhất 3 tháng sau khi cấy đờm âm tính.

Chế độ có thể lựa chọn thứ hai là hàng ngày trong 2 tuần dùng isoniazid, rifampin, pyrazinamid và streptomycin hay ethambutol, tiếp đó cho 2 ngày mỗi tuần (có theo dõi trực tiếp) các thuốc trên trong 6 tuần sau đó theo dõi trực tiếp và cho isoniazid và rifampin 2 ngày một tuần trong 16 tuần.

Chế độ có thể chọn lựa thứ ba là theo dõi trực tiếp và cho isoniazid, rifampin, pyrazinamid và ethambutol hay streptomycin, 3 ngày một tuần trong 6 tháng.

Người nhiễm HIV có thể điều trị theo một trong 3 cách trên trong 9 tháng và ít nhất 6 tháng sau khi cấy vi khuẩn âm tính.

Chế độ dùng bốn thứ thuốc không cần dùng nếu tỷ lệ kháng isoniazid trong cộng đồng dưới 4%. CDC khuyên nên khám thầy thuốc chuyên khoa lao nếu sau 3 tháng bệnh nhân vẫn còn triệu chứng hay soi đờm trực tiếp hay nuôi cấy dương tính.

Nếu thử nghiệm độ nhạy cảm các thuốc không có hiệu lực, việc quyết định tiếp tục dùng ethambutol hay streptomycin của toàn thời gian điều trị nền dựa trên các mẫu kháng thuốc tại chỗ và tình trạng nhiễm HlV của bệnh nhân. Nếu độ kháng isoniazid trong cộng đồng vượt qúa 4% hoặc bệnh nhân nhiễm HIV nên tiếp tục dùng ethambutol hay streptomycin trong toàn thể thời gian điều trị.

CDC khuyên dùng chế độ điều trị bằng 5 loại thuốc hay 6 loại thuốc khi có bùng phát kháng thuốc isoniazid và rifampin như đã xảy ra ở một số nơi và ở các nhà tù.

Điều trị có theo dõi trực tiếp đòi hỏi người cán bộ y tế phải quan sát thấy người bệnh uống thuốc tại nhà, trong bệnh viện, phòng khám hay ở bất cứ nơi nào khác, đảm bảo có sự cộng tác của bệnh nhân với việc chữa trị. Không cộng tác là một nguyên nhân chủ yếu làm điều trị thất bại kháng thuốc, tăng nguy cơ lan truyền bệnh lao. Điều trị có kiểm soát trực tiếp được CDC khuyên dùng cho mọi bệnh nhân lao kháng thuốc, bệnh nhân điều trị gián cách (2 - 3 ngày mỗi tuần).

Điều trị lao ngoài phổi cũng giống như lao phổi. Nhiều chuyên gia chuyên điều trị trong 9 tháng. Điều tri lao cột sống phải mổ dẫn lưu sớm và tách dính các mảnh xương hoại tử. Lao màng não và viêm ngoại tâm mạc do lao điều trị bằng corticosteroid.

Bảng. Các lựa chọn được yêu cầu trong điều trị lao lúc đầu (1)

Lao không nhiễm HIV

Lao kèm nhiễm HIV

Lựa chọn 1

Lựa chọn 2

Lựa chọn 3

 

Dùng hàng ngày isoniazid, rifampin và pyrazinámid trong 8 tuần, sau đó isoniazid và rifampin dùng hàng ngày hay 2 - 3 ngày mỗi tuần(2), ở vùng kháng isoniazid dưới 4% nên thêm ethabutol hay streptomycin vào điều trị lúc đầu tới khi chứng minh được độ nhay cảm với isoniazid và rifampin. Tiếp tục điều trị ít nhất 6 tháng và khi đã biết BK điều trị thêm 3 tháng nữa. Nếu bệnh nhân không có triệu chứng hay nếu soi đờm trực tiếp hoặc nuôi cấy 3 tháng sau vẫn còn BK cần đi khám thầy thuốc chuyên khoa lao.

Dùng hàng ngày isoniazid, rifampin và streptomycin hoặc ethạmbutol trong 2 tuần rồi tuần 2 lần(2) cũng các thuốc trên trong 6 tháng có trực tiếp kiểm soát sau đó cho gián cách 2 ngày 1 một tuần có kiểm soát trực tiếp dùng isoniazid và rifampin trong 16 tuần. Nếu bệnh nhấn không có triệu chứng hay nếu soi đờm trực tiếp hoặc nuôi cấy 3 tháng sau vẫn còn BK cần đi khám thầy thuốc chuyên khoa lao.

Điều trị có kiểm soát trực tiếp tuần 3 lần với isoniazid, rifampin, pyrazinamid, và ethambutol hay streptomycin trong 6 tháng(3). Nếu bệnh nhân không có triệu chứng hay nếu soi đờm trực tiếp hoặc nuôi cấy 3 tháng sau vẫn còn BK cần di khám thầy thuốc chuyên khoa lao.

Chọn lựa 1,2 hay 3 đều có thể sử dụng nhưng chế độ điều trị nên liên tục trong tổng thời gian là 9 tháng và ít nhất khi BK đã âm tính điều trị 6 tháng nữa.

(1) Trích có sửa đổi từ: Điều tri ban đầu lao ở thời đại đa kháng thuốc. Khuyến cáo của Hội đồng cố vấn bài lao MNWR Morbid Mortal Wkiy Rep.

(2) Mọi chế độ cho 2 - 3 ngày một tuần cần theo dõi trực tiếp trong suốt thời kỳ điều trị.

(3) 4 loại thuốc cho đầy đủ 6 tháng có hiệu quả lâm sàng mạnh nhất. Hiệu quả yếu hơn nếu Streptomycin sau 4 tháng cho liều cách quãng trong khi BK vẫn nhậy cảm với các loại thuốc. Ngừng Pyrazinamid trước khi hết 6 tháng thì kết quả không chắc chắn đối với chế độ điều trị tuần 3 lần và kết quả không rõ ràng nếu chế độ này ethambutol cho dưới 6 tháng.

Lao khi có thai lúc đầu điều trị có isoniazid, rifampin, và ethambutol. Pyrazinamid chỉ nên dùng nếu các thuốc khác bị kháng và trực khuẩn còn nhậy cảm với pyrazinamid vì chưa xác định được pyrazinamid có gây nguy cơ quái thai không. Streptomycin là chống chỉ định khi có thai vì có thể gây điếc bẩm sinh. Isoniazid, rifampin, và ethambutol được coi là an toàn khi có thai.

Bảng. Liều lượng thuốc điều trị lần đầu bị lao(1)

Thuốc

Hàng ngày

Tuần 2 lần

Tuần 3 lần

lsoniazid

            5mg/kg

Tối đa: 300mg/liều

15 mg/kg

Tối đa: 900mg/liều

15 mg/kg

Tối đa: 900mg/liều

Rifampin

10 mg/kg

Tối đa: 600mg/liều

10 mg/kg

Tối đa: 600mg/liều

10 mg/kg

Tối đa: 600mg/liều

Pyrazinamid

15 - 30 mg/kg

Tối da: 2g/liều

50 - 70 mg/kg

Tối da: 4g/liều

50 - 70 mg/kg

Tối da: 3g/liều

Ethabutol(2)

25 mg/kg

Tối đa: 2,5g/liều

50 mg/kg

Tối đa: 2,5g/liều

25 - 30 mg/kg

Tối đa: 2,5g/liều

Streptomycin   

15 mg/kg

Tối đa: 1 g/liều

25 - 30 mg/kg

Tối đa: 1,5 g/liều

25 - 30mg/kg

Tối đa: 1,5 g/liều

(1) Trích có sửa đổi từ: Điều tri ban đầu lao ở thời đại đa kháng thuốc. Khuyến cáo của Hội đồng cố vấn bài lao MNWR Morbid Mortal Wkiy Rep.

(2) Ethambutol nói chung không được khuyên dùng cho người không kiểm tra được thị lực Ethambútol được dùng cho bệnh nhân BK kháng các thuốc khác nhưng vẫn nhạy cảm với Ethambutol.

Thầy thuốc đôi khi gặp những bệnh nhân có tổn thương lao trên phim X quang, có triệu chứng lâm sàng, phản ứng tuberculin dương tính nhưng BK âm tính. Những bệnh nhân này vi khuẩn ít hơn những trường hợp soi trực tiếp hay cấp BK dương tính. Điều trị chế độ isoniazid và riíampin trong 4 tháng có hiệu qủa đối với lao phổi khi soi đờm trực tiếp và cấy đờm BK âm tính.

Trước khi điều trị lao cho người lớn nên làm xét nghiệm bilirubin trong huyết thanh, men gan, ure, creatinin, đếm hồng bạch càu, tiểu cầu. Trước khi điều trị ethambutol nên đo thị lực trước khi điều trị pyrazinamid nên đo acid uric trong huyết thanh. Người bệnh bắt đầu trị liệu nên được cảnh báo theo dõi các triệu chứng độc hại của thuốc. Thử nghiệm thường quy theo dõi: độc tính không đặt ra nhưng hàng tháng nên hỏi có các triệu chứng độc hại của thuốc không. Các thử nghiệm cân lâm sàng phù hợp bắt buộc phải làm nếu có triệu chứng của nhiễm độc do thuốc.

Hóa phòng bệnh

Người nhiễm trực khuẩn lao không có bệnh hoạt tính nhưng có vi khuẩn trong cơ thể. Phòng bệnh bằng isoniazid (người lớn 300 mg/ngày, trẻ em 10 - 14 mg/kg/ngay tới 300mg/ngày) trong 12 tháng có thể giảm chỉ số lưu hành lao tái hoạt 93%. Điều trị isoniazid trong 6 tháng cũng có thể cho hiệu qủa bảo vệ tương tự. Háa phòng bệnh cho những người tiếp xúc chặt chẽ với bệnh nhân lao kháng isoniazid có thể gồm: (1) hóa phòng bệnh bằng isoniazid, (2) điều trị rifampin trong 12 tháng hoặc (3) chỉ theo dõi chặt chẽ. Phương cách thứ hai nên cho những người có nguy cơ cao (trẻ em, người bệnh miễn dịch bị tổn thương).

Những nhóm người sau đây, không kể tiếp xúc, nên cho hóa phòng bệnh bằng isoniazid nếu có phản ứng tuberculin dương tính:

Người nhà và những người tiếp xúc gần gũi với người bị lao có vi khuẩn, trẻ em nên điều trị ngay cả khi thử nghiệm da ban đầu âm tính và sau 3 tháng điều trị bằng isoniazid nên thử lại thử nghiệm da. Nếu thử nghiệm da thay đổi, tiếp tục điều trị isoniazid tối khi đủ 12 tháng.

Người nhiễm mới (thử nghiệm da chuyển từ âm sang dương tính trong 2 năm).

Người có tiền sử lao không điều trị hay điều trị không đầy đủ.

Người thử nghiệm da dương tính, X quang có tổn thương đông đặc của lao nhưng không tìm thấy vi khuẩn lao. Những người này dùng hóa trị liệụ phòng ngừa trong 12 tháng.

Người trước đây hay hiện nay thử nghiệm da dương tính tiềm ẩn nguy cơ lao tái hoạt như bệnh bụi phổi, bệnh đái tháo đường, điều trị copticosteroid dài ngày, điều trị giảm miễn dịch, bệnh thận giai đoạn cuối, suy dinh dưỡng mạn tính bất kỳ nguyên nhân nào, ung thư máu và ung thư võng nội mô, bị AIDS hay có thử nghiệm dương tính với kháng thể của HIV. Người nhiễm HIV có thử nghiệm da với tuberculin dương tính (và những người nghiện dùng ma tủy đường tĩnh mạch có phản ứng tuberculin dương tính, những người nghi nhiễm HIV hay xác định có nhiễm HIV) dùng hóa phòng bệnh bằng isoniazid trong 12 tháng.

Người thử nghiệm đa dương tính dưới 35 tuổi và không có các nguy cơ nói trên. Chỉ định hóa phòng bệnh trong những trường hợp này còn bàn cãi.

Nguy cơ chủ yếu của hóa phòng bệnh bằng isoniazid là viêm gan do thuốc, Nguy cơ này tăng theo tuổi. Nếu người uống có biểu hiện lâm sàng viêm gan khi dùng thuốc thì phải ngừng. Nếu không có thể gây hoại tử gan tiến triển. Các thử nghiệm kiểm tra thường qui về sinh hóa chức năng gan định kỳ cần làm cho người 35 tuổi hay hơn. Nguy cơ chết người do viêm gan do isoniazid sẽ không xảy ra nếu được kiểm tra như đã nói trên. Nếu transaminase tăng gấp 3 lần bình thường thì dù không có triệu chứng cũng phải ngừng thuốc.

Vaccin

Một số vaccin BCG sống sản xuất từ chủng vi khuẩn gốc (vi khuẩn Calmette Guerin) có tác dụng đã được biết đến. Tiêm chủng BCG chỉ nên dùng nếu hóa phòng lao bằng isoniazid không thực hiện được. Khuyến cáo hiện nay là nên tiêm chủng BCG cho người có tuberculin âm tính đặc biệt là trẻ em, người có qụan hệ tiếp, xúc với người lao không điều trị hay lao điều trị không hiệu qủa. BCG nên thực hiện cho cộng đồng hay cho nhóm người có tỷ lệ nhiễm mới cao mặc dù đã có chương trình chống lao và điều trị lao tích cực.

Bảng. Đặc điểm các thuốc chống lao(1)

Thuốc

Các tác dụng thường gặp nhất

Các thử nghiệm khi có tác dụng phụ

Tương tác thuốc

Ghi chú

lsoniazid

Viêm thần kinh ngoại biên, viêm gan, qúa mẫn

AST và ALT, khám thần kinh

Phenytoin (tác dụng hiệp đồng); disulíiram

Diệt khuẩn cả trong và ngoài tế bào. Pyridoxin, 10mg uống hàng ngày phòng viêm thần kinh, điều trị thì uống hàng ngày 50 - 100mg

Rifampin

Viêm gan, sốt, ban xuất huyết (hiếm)

AST và ALT

Rifampin ức chế thuốc tránh thai dùng đường uống, quinidin, corticosteroid, vvartarin, methadon, digoxin, thuốc hạ đường huyết đường uống; aminosalicylic acid, có thể gây trở ngại oho sự hấp thu rifampin

Diệt khuẩn mọi chủng vi khuẩn. Nước tiểu và các chất bài tiết khác của cơ thể có màu da cam. Làm bạc màu kính mắt tiếp xúc

Pyrazinamid

Tăng acid uric trong máu, độc gan

Uric acid, AST, ALT

 

Diệt khuẩn trong tế bào. Phối hợp với một aminoglycosid là thuốc diệt khuẩn

Ethambutol

Viêm thần kinh mắt (phục hồi được khi ngưng thuốc; hiếm gặp với liều 15 mg/kg) nổi ban

Không phân biệt được màu đỏ và xanh lá cây (khó kiểm tra ở trẻ dưới 3 tuổi)

 

Kìm khuẩn cả tròng và ngoài tế bào. Chủ yếu dùng để ức chế sự phát triển các biến dị kháng thuốc. Dùng cẩn thận trong bệnh thận hay khi không kiểm tra về mắt được

Streptomycin

Tổn thướng thần kinh số VIII, gây độc thận

Chức năng tiền đình (đo thính lực); BUN và creatinin

Các tác nhân ức chế thần kinh - có tế bào. Có thể tăng hiệu lực gây liệt kéo dài

Diệt khuẩn ngoài tế bào, Dùng cẩn thận ờ người cao tuổi hay người có bệnh thận

(1) Trích có sửa đổi của Bailey WC và CS: Điều trị lao và các bệnh mycobacteria Am. Rev - Respir - Dis - 1983; 127; 790.

Tiên lượng

Hầu như toàn bộ bệnh nhân bị lao được điều trị thích hợp đều khỏi bệnh. Với chế độ điều trị hiện nay tốc độ giảm đợt tái phát là dưới 5%. Nguyên nhân chính gây thất bại trong điều trị là bệnh nhân không chấp hành theo điều trị.

Bài viết cùng chuyên mục

Tràn khí màng phổi tự phát

Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.

Tràn dịch màng phổi

Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.

Viêm màng phổi

Khi có tràn dịch màng phổi, dày màng phổi hoặc có khí trong khoang màng phổi phải có chẩn đoán và điều trị khác. Cũng cần nhắc lại rằng gẫy xương sườn có thể gây tràn dịch màng phổi nặng.

Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.

Suy hô hấp cấp

Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.

Hội chứng tăng thông khí

Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.

Các rối loạn thở liên quan đến ngủ

Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.

Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick

Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.

Giảm thông khí phế nang tiên phát

Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.

Tổn thương phổi do tia xạ

Xơ phổi do tia xạ xảy ra gần như trong tất cả bệnh nhân được nhận một tiến trình đầy đủ về điều trị bằng tia xạ trong ung thư phổi hoặc lồng ngực.

Bệnh phổi do thuốc

Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.

Các bệnh phổi nghề nghiệp

Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.

Các hội chứng hít sặc ở phổi

Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.

Hít phải khói

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.

Thở không khí ô nhiễm

Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó.

Tăng áp lực động mạch phổi

Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.

Bệnh huyết khối tắc mạch phổi

Các phát hiện lâm sàng trong huyết khối tác nghẽn mạch phổi phụ thuộc vào kích thước cục tắc và trạng thái tim phổi trước đó. Trong nghẽn mạch phổi lớn, thất phải bị suy, huyết áp hệ thống hạ.

Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan

Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao

Nhiễm protein phế nang phổi

Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.

Các hội chứng chảy máu phế nang

Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.

Viêm mạch phổi và bệnh u hạt

Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.

Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị

Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.

Viêm phế nang xơ nguồn gốc ẩn

Điều trị gồm các biện pháp hỗ trợ, thở thêm oxy và corticosteroid. Corticosteroid thường chỉ định cho các bệnh nhân có các triệu chứng tăng dần hay chức năng phổi suy giảm.

Các bệnh phổi kẽ

Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.

Các khối u trung thất

CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.

Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi

Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.

Các khối u lành tính của phổi

Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.

Ung thư trung biểu mô màng phổi

Tuổi trung bình khởi phát các triệu chứng ung thư trung biểu mô màng phổi ác tính khoảng 60 tuổi: Thời gian tiềm tàng từ khi tiếp xúc đến khi có các triệu chứng từ 20 đến 40 năm.

Ung thư phổi thứ phát

Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.

Nốt phổi đơn độc

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.

Bệnh do mycobacteria không phải lao

Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.

Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch

Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.

Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi

Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.

Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng

Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.

Viêm phổi

Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi.

Viêm khí phế quản cấp

Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.

Viêm tắc tiểu phế quản

Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.

Giãn phế quản

Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.

Bệnh nấm aspergillus phổi phế quản dị ứng

Tiêu chuẩn chẩn đoán thứ đến là phân lập được aspergillus trong đờm, tiền sử có đờm lốm đốm máu, phản ứng bì muộn với kháng nguyên aspergillus.

Tắc đường hô hấp

Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.

Bệnh xơ nang phổi

Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD

Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.

Hen phế quản

Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.

Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản

Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi

Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.

Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản

Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.