Bệnh xơ nang phổi

2016-09-20 11:08 AM

Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các bệnh đường thở có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chia thành các đặc trưng về lâm sàng và sinh lý bệnh nào đó. Dòng khí bị giới hạn là đặc điểm và là hậu qủa của tắc nghẽn đường thở ngay ở trong lòng đường thở, thành khí đạo bị dầy lên, hay tổn thất các mô kẽ chống đỡ cần để giữ cho khí đạo thông thoáng. Tăng xuất tiết niêm dịch, đường thở bị kích thích, các bất thường về trao đổi khí gây ra ho, xuất tiết đờm, khò khè và khó thở.

Những điểm thiết yếu đế chẩn đoán

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở trẻ nhỏ và vị thành niên.

Viêm phế quản và giãn phế quản do tụ cầu vàng hay do pseudomonas aeruginosa mạn tính với các đợt vượng bệnh tái diễn.

Tiền sử gia đình xơ nang dương tính.

Đậm độ cholorid trong mồ hôi trên 80mEq/l ở người lớn (>60mEq/l dưới 20 tuổi) trong 2 lần đo.

Thiểu năng tụy đặc biệt ở trẻ nhỏ.

Vô tinh trùng do tắc nghẽn không rõ nguyên nhân ở nam giới.

Nhận định chung

Xơ nang là một bệnh toàn thân di truyền lặn của nhiễm sắc thể thường của các tuyến ngoại tiết. Có chừng 1/2500 người vùng Cápcazơ mắc bệnh và 1/25 người mang gen xơ nang (gen điều chỉnh độ dẫn xuyên màng). Trong 1480 acìd amin thiếu đi một phenylalanine trong gen mã hóa xơ nang do sự biến dị nhánh dài của nhiễm sắc thể 7 (dải q31) thấy trong đại bộ phận các trường hợp xơ nang. Hầu hết các tuyến ngoại tiết bị ảnh hưởng xuất tiết ra niêm dịch một cách bất thường làm tắc ống tuyến và tuyến trong các tạng. Do tắc ống tuyến làm giãn các tuyến xuất tiết làm tổn thương các mô xuất tiết nên các chất xuất tiết của đường hô hấp chứa một đậm độ cao ADN khiến cho đờm rất đặc và quánh. Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản. Tâm phế mạn xảy ra ở những trường hợp tiến triển và tiên lượng xấu.

Xơ nang là rối loạn di truyền nguy hiểm thường gặp nhất ố những người vùng Cápcazơ và Hoa Kỳ và là nguyên nhân thường gặp nhất của các bệnh phổi mạn tính ở trẻ nhỏ và vị thành niên. Khoảng một nửa trẻ xơ nang sống được trên 20 tuổi. Khoảng 1/3 của gần 30.000 bệnh nhân xơ nang ở Hoa Kỳ là người lớn. Thầy thuốc lâm sàng cần biết xơ nang có thể có trong nhiều biểu hiện của phổi và bệnh ngoài phổi ở người lớn.

Các triệu chứng và biểu hiện

Phải nghĩ tới có xơ nang khi một người còn trẻ có tiên sử bệnh phổi mạn tính (đặc biệt là giãn phế quản), viêm tụy hay vô sinh. Ho, không thích ứng với hoạt động, viêm phổi hồi quy là các triệu chứng điển hình của xơ nang. Thường thấy phân óng ánh những hạt mỡ. Ngón tay dùi trống, tăng đường kính trước sau của lồng ngực, lồng ngực gõ vang, phổi nghe có nhiều tiếng rên lép bép ở vùng đáy. Polyp mũi có ở 15% số bệnh nhân xơ nang. Xơ gan do mật và sỏi bàng quang có thể thấy ở những bệnh nhân này.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Định lượng khí máu thấy có thiếu oxy. Chức năng phổi có giảm thiểu dung tích sống gắng sức, tỷ số dòng khí và dung tích phổi toàn thể. Khí bẫy (tỷ số dung tích cặn so với dung tích phổi toàn thể cao) và giảm khả năng khuếch tán của phổi hay gặp. Rối loạn chức năng phổi kiểu phối hợp cả hạn chế lẫn tắc nghẽn là đặc trưng của bệnh xơ nang tiến triển.

Xét nghiệm hình ảnh

Trong qúa trình bệnh hình ảnh căng phồng của phổi thấy rất sớm. Có hình viền ở xung quanh phế quản, hình phế quản bị niêm dịch nút tắc, giãn phế quản (các bóng hình vòng và các nang), các hình khe kẽ tăng, có các bóng tròn nhỏ ở ngoại vi, và xẹp phổi hình ổ có thể thấy riêng rẽ hay ở dạng phối hợp: Chụp CT Scan lớp mỏng có thể xác định giãn phế quản.

Các xét nghiệm đặc biệt

Điện di ion hóa pilocarpin trong "test mồ hôi" phát hiện Na và Cl có ở mức cao (> 60 mEq/l) trong mồ hôi người bệnh xơ nang, ở người lớn mức này cao hơn 80 mEq/l với hai lần thử nghiệm riêng rẽ vào các ngày khác nhau có thể giúp chẩn đoán chính xác.

Điều trị

Chẩn đoán được bệnh sớm, điều trị với nhiều kỹ luật chặt chẽ, toàn diện sẽ kéo dài được cuộc sống của bệnh nhân, cải thiện được tình trạng bệnh. Phải coi trọng việc giám định về chẩn đoán và điều trị của các trung tâm chăm sóc sức khỏe khu vực. Điều trị các biểu hiện tâm thần xã hội là quan trọng vô cùng ở người trẻ tuổi, cũng cần hướng dẫn về nghề nghiệp và cố vấn cho bệnh nhân về mặt di truyền. Kháng sinh điều trị nhiễm khuẩn hoạt tính đường hô hấp dựa trên kết qủa của nuôi cấy và thử độ nhậy của vi khuẩn trong đờm. Thường gặp loại tụ cầu vàng (bao gồm các chủng kháng methicillin) và các chủng mủ xanh. Heamophilus influenzae và Pseudomonas cepacia - loại vi khuẩn sau kháng thuốc rất cao - đôi khi cũng phân lập được. Dùng kháng sinh dạng khí dung (gentamycin và các kháng sinh khác) để phòng và điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới ở bệnh nhân xơ nang đôi khi có ích. Có một số nghiên cứu chứng minh các qúa trình vượng bệnh giảm đi ở các bệnh nhân nhiễm P. aeruginosa mạn tính nhưng lại nổi lên các vi khuẩn kháng thuốc, lây nhiễm trang thiết bị với P. cepacia và các tác dụng phụ như co thắt phế quản.

Khí dung không thuốc, vật lý liệu pháp lồng ngực và hít các thuốc giãn phế quản được dùng để các chất xuất tiết dầy quánh đường thở thải ra dễ dàng. Phải tránh dùng các thuốc ức chế ho. Dùng các thuốc tiêu đờm lâu ngày như acetylcystein không lợi gì mà còn tăng hại. Nên tiêm vaccin phòng nhiễm khuẩn phế cầu và hàng năm tiêm vaccin phòng cúm. Bệnh nhân xuất tiết đờm nhiều hàng ngày rất nên dẫn lưu tư thế và vỗ rung lồng ngực. Một nghiên cứu cho thấy trẻ bị xơ nang được điều trị bằng prednison xen kẽ (2mg/kg trong 4 năm) tăng được chiều cao, cân nặng và chức năng phổi do đó giảm được việc nằm viện so với nhóm chứng. Việc dùng corticosteroid thường quy ở người lớn bị xơ nang không nên tiến hành nếu thiếu các thử nghiệm lâm sàng có thể kiểm tra được.

Điều tra các thành viên gia đình người bi xơ nang bằng phương pháp phân tích ADN có thể phát hiện gen xơ nang trong 70 - 75% số người. Qua đó cho thấy nhiều vấn đề về xã hội, chủng tộc, điều tra về dân còn chưa được tiếp hành.

Ghép phổi hiện nay là cách điều tri triệt để duy nhất bệnh xơ nang. Dùng các chế phẩm deoxyribonuclease làm loãng đờm và làm đờm dễ được thanh thải ra ngoài bằng cách hàng ngày cho khí dung 2,5mg thuốc này 1 - 2 lần/ngày. Liệu pháp gen để chuyển gen điều chỉnh hướng dẫn qua màng xơ nang cho tế bào biểu mô đường hô hấp còn đang được nghiên cứu. Kinh nghiệm ghép tim phổi và phổi đôi đang được tích lũy với những kết qủa đầu tiên cho thấy là tốt ở những người đã được ghép. Tỷ lệ sống 2 năm sau khi ghép phổi là khoảng 64%.

Tiên lượng

Thời gian kéo dài tuổi thọ của bệnh nhân bị bệnh xơ nang hiện đang tăng lên và tuổi sống sót trung bình là 29 tuổi. Có rất ít bệnh nhân sống được ngoài 35 tuổi. Chết là do biến chứng hô hấp như viêm phổi, tràn khí màng phổi hoặc ho ra máu cũng như là hậu qủa của suy hô hấp mạn giai đoạn cuối và tâm phế mạn.

Bài viết cùng chuyên mục

Tràn khí màng phổi tự phát

Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.

Tràn dịch màng phổi

Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.

Viêm màng phổi

Khi có tràn dịch màng phổi, dày màng phổi hoặc có khí trong khoang màng phổi phải có chẩn đoán và điều trị khác. Cũng cần nhắc lại rằng gẫy xương sườn có thể gây tràn dịch màng phổi nặng.

Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.

Suy hô hấp cấp

Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.

Hội chứng tăng thông khí

Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.

Các rối loạn thở liên quan đến ngủ

Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.

Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick

Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.

Giảm thông khí phế nang tiên phát

Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.

Tổn thương phổi do tia xạ

Xơ phổi do tia xạ xảy ra gần như trong tất cả bệnh nhân được nhận một tiến trình đầy đủ về điều trị bằng tia xạ trong ung thư phổi hoặc lồng ngực.

Bệnh phổi do thuốc

Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.

Các bệnh phổi nghề nghiệp

Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.

Các hội chứng hít sặc ở phổi

Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.

Hít phải khói

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.

Thở không khí ô nhiễm

Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó.

Tăng áp lực động mạch phổi

Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.

Bệnh huyết khối tắc mạch phổi

Các phát hiện lâm sàng trong huyết khối tác nghẽn mạch phổi phụ thuộc vào kích thước cục tắc và trạng thái tim phổi trước đó. Trong nghẽn mạch phổi lớn, thất phải bị suy, huyết áp hệ thống hạ.

Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan

Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao

Nhiễm protein phế nang phổi

Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.

Các hội chứng chảy máu phế nang

Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.

Viêm mạch phổi và bệnh u hạt

Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.

Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị

Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.

Viêm phế nang xơ nguồn gốc ẩn

Điều trị gồm các biện pháp hỗ trợ, thở thêm oxy và corticosteroid. Corticosteroid thường chỉ định cho các bệnh nhân có các triệu chứng tăng dần hay chức năng phổi suy giảm.

Các bệnh phổi kẽ

Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.

Các khối u trung thất

CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.

Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi

Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.

Các khối u lành tính của phổi

Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.

Ung thư trung biểu mô màng phổi

Tuổi trung bình khởi phát các triệu chứng ung thư trung biểu mô màng phổi ác tính khoảng 60 tuổi: Thời gian tiềm tàng từ khi tiếp xúc đến khi có các triệu chứng từ 20 đến 40 năm.

Ung thư phổi thứ phát

Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.

Nốt phổi đơn độc

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.

Bệnh do mycobacteria không phải lao

Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.

Lao phổi: chẩn đoán và điều trị

Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.

Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch

Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.

Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi

Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.

Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng

Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.

Viêm phổi

Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi.

Viêm khí phế quản cấp

Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.

Viêm tắc tiểu phế quản

Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.

Giãn phế quản

Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.

Bệnh nấm aspergillus phổi phế quản dị ứng

Tiêu chuẩn chẩn đoán thứ đến là phân lập được aspergillus trong đờm, tiền sử có đờm lốm đốm máu, phản ứng bì muộn với kháng nguyên aspergillus.

Tắc đường hô hấp

Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD

Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.

Hen phế quản

Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.

Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản

Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi

Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.

Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản

Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.