Hít phải khói

2016-10-18 10:48 AM

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Thở hít các sản phẩm của sự đốt cháy có thể gây những biến chứng nghiêm trọng. Chừng 1/3 người vào viện điều trị bỏng bị tổn thương phổi do hít khói. Số người mắc bệnh và chết vì hít khói còn hơn cả vi bỏng. Mọi bệnh nhân nghi hít khói đã có biểu hiện nên cho vào viện để theo dõi và điều trị.

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói: sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói. Quá trình oxy hóa của mô suy giảm do hít phải carbonmonoxid hoặc cyanid là mối đe dọa tức khắc đến tính mạng. Xử trí bệnh nhân bị ngộ độc carbon monoxid và ngộ độc cyanid được nêu ở chương về ngộ độc. Người thầy thuốc phải biết rằng người bệnh ngộ độc carbon monoxid có máu động mạch áp lực riêng phần oxy (PaO2) binh thường nhưng độ bão hòa oxy hemoglobin thấp (SaO2). Chủ yếu phải điều trị bằng oxy 100% và tiếp tục cho đến khi mức carboxyhemoglobin xuống dưới 10% và nhiễm toan chuyển hóa đã được giải quyết.

Tổn thương do nhiệt bề mặt niêm mạc đường hô hấp trên xảy ra khi hít phải khí nóng. Biến chứng trở nên rõ rệt 18 - 24 giờ sau. Đó là khó thải đờm, tắc nghẽn đường hô hấp, tiếng thở rít thì hít vào. Suy hô hấp có ưu thán và thiếu oxy xảy ra trong những trường hợp nặng. Xử trí sớm bằng cách cho dùng mặt nạ có độ ẩm cao, cho oxy bổ sung, hút nhẹ giải thoát đờm, nằm đầu cao 30° cho dễ ho khạc, dùng epinephrin tại chỗ để giảm phù màng nhầy miệng họng. Hỗn hợp heliumoxy có thể giảm việc thở khó nhọc. Theo dõi một cách chặt chẽ cac khí trong máu động mạch và đo oxy trong máu rất quan trọng. Soi thanh quản ống mềm hoặc soi phế quản tốt hơn khám thực thể đơn thuần. Đặt ống nội khí quản thường cần để tạo lập được sự thông suốt đường hô hấp cho các bệnh nhân bỏng mặt sâu, phù miệng họng hay thanh quản hoặc suy hô hấp. Nên tránh mở khí quản nếu có thể vì làm tăng nguy cơ viêm phổi hoặc tử vong do nhiễm khuẩn.

Tổn thương hóa chất của phổi do hít phải khí độc và các sản phẩm của sự đốt cháy gồm aldehyt và các acid hữu cơ. Vị trí tổn thương phổi tùy thuộc độ hòa tan của các khí thở hít, thời gian thở hít, kích thích các hạt thở hít chuyển tải khí độc tới các đơn vị phổi xa. Xuất tiết phế quản và co thắt phế quản được thấy rất sớm sau khi hít phải khói với khó thở, thở nhanh và nhịp tim nhanh. Sau đó có thể thở nặng nhọc, tím tái. Khám thực thể lúc này phát hiện thở khò khè lan tỏa và tiếng ran ngáy. Phù các tiểu phế quản và phù phổi do tăng thấm thành mạch (hội chứng suy hô hấp nguy kịch ở người ‘lớn - ARDS) có thể xảy ra 1 - 2 ngày sau khi hít khói.. Bong niêm mạc phế quản xảy ra trong 2 - 3 ngày dẫn đến tắc đường hô hấp, xẹp phổi và thiếu máu oxy. Sau khi hít khói 5 - 7 ngày thường nhiễm khuẩn và viêm phổi.

Điều trị biến chứng phổi do hít khói gồm cho thở oxy bổ sung, cho thuốc giãn phế quản, hút các mảnh niêm mạc và các xuất tiết nhầy mủ qua ống nội khí quản, lý liệu pháp lồng ngực để việc thanh thải các chất xuất tiết được dễ dàng và khí thở phải có đủ độ ẩm. Để điều trị phù các tiểu phế quản cần cho thở máy áp lực dương cuối thì thở ra (PEEP). Xử lý bằng truyền dịch hợp lý, theo dõi chặt chẽ nhiễm khuẩn thứ phát bằng cách hàng ngày lấy đờm nhuộm gram.

Việc dùng corticosteroid trong tổn thương phổi do hóa chất trong hít khói không có hiệu qủa thậm chí còn nguy hại. Dùng kháng sinh để phòng ngừa không cần thiết.

Các bệnh nhân còn sống phải được theo dõi viêm tiểu phế quản tắc nghẽn chậm sau này.

Bài viết cùng chuyên mục

Tắc đường hô hấp

Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.

Các hội chứng hít sặc ở phổi

Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.

Lao phổi: chẩn đoán và điều trị

Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.

Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.

Bệnh phổi do thuốc

Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.

Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi

Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.

Suy hô hấp cấp

Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.

Nốt phổi đơn độc

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.

Bệnh nấm aspergillus phổi phế quản dị ứng

Tiêu chuẩn chẩn đoán thứ đến là phân lập được aspergillus trong đờm, tiền sử có đờm lốm đốm máu, phản ứng bì muộn với kháng nguyên aspergillus.

Các khối u lành tính của phổi

Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD

Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.

Tăng áp lực động mạch phổi

Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.

Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản

Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.

Bệnh huyết khối tắc mạch phổi

Các phát hiện lâm sàng trong huyết khối tác nghẽn mạch phổi phụ thuộc vào kích thước cục tắc và trạng thái tim phổi trước đó. Trong nghẽn mạch phổi lớn, thất phải bị suy, huyết áp hệ thống hạ.

Các khối u trung thất

CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi

Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.

Ung thư phổi thứ phát

Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.

Tràn khí màng phổi tự phát

Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.

Viêm khí phế quản cấp

Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.

Các rối loạn thở liên quan đến ngủ

Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.

Thở không khí ô nhiễm

Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó.

Các hội chứng chảy máu phế nang

Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.

Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị

Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.

Nhiễm protein phế nang phổi

Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.

Hội chứng tăng thông khí

Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.