- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp
- Hít phải khói
Hít phải khói
Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Thở hít các sản phẩm của sự đốt cháy có thể gây những biến chứng nghiêm trọng. Chừng 1/3 người vào viện điều trị bỏng bị tổn thương phổi do hít khói. Số người mắc bệnh và chết vì hít khói còn hơn cả vi bỏng. Mọi bệnh nhân nghi hít khói đã có biểu hiện nên cho vào viện để theo dõi và điều trị.
Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói: sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói. Quá trình oxy hóa của mô suy giảm do hít phải carbonmonoxid hoặc cyanid là mối đe dọa tức khắc đến tính mạng. Xử trí bệnh nhân bị ngộ độc carbon monoxid và ngộ độc cyanid được nêu ở chương về ngộ độc. Người thầy thuốc phải biết rằng người bệnh ngộ độc carbon monoxid có máu động mạch áp lực riêng phần oxy (PaO2) binh thường nhưng độ bão hòa oxy hemoglobin thấp (SaO2). Chủ yếu phải điều trị bằng oxy 100% và tiếp tục cho đến khi mức carboxyhemoglobin xuống dưới 10% và nhiễm toan chuyển hóa đã được giải quyết.
Tổn thương do nhiệt bề mặt niêm mạc đường hô hấp trên xảy ra khi hít phải khí nóng. Biến chứng trở nên rõ rệt 18 - 24 giờ sau. Đó là khó thải đờm, tắc nghẽn đường hô hấp, tiếng thở rít thì hít vào. Suy hô hấp có ưu thán và thiếu oxy xảy ra trong những trường hợp nặng. Xử trí sớm bằng cách cho dùng mặt nạ có độ ẩm cao, cho oxy bổ sung, hút nhẹ giải thoát đờm, nằm đầu cao 30° cho dễ ho khạc, dùng epinephrin tại chỗ để giảm phù màng nhầy miệng họng. Hỗn hợp heliumoxy có thể giảm việc thở khó nhọc. Theo dõi một cách chặt chẽ cac khí trong máu động mạch và đo oxy trong máu rất quan trọng. Soi thanh quản ống mềm hoặc soi phế quản tốt hơn khám thực thể đơn thuần. Đặt ống nội khí quản thường cần để tạo lập được sự thông suốt đường hô hấp cho các bệnh nhân bỏng mặt sâu, phù miệng họng hay thanh quản hoặc suy hô hấp. Nên tránh mở khí quản nếu có thể vì làm tăng nguy cơ viêm phổi hoặc tử vong do nhiễm khuẩn.
Tổn thương hóa chất của phổi do hít phải khí độc và các sản phẩm của sự đốt cháy gồm aldehyt và các acid hữu cơ. Vị trí tổn thương phổi tùy thuộc độ hòa tan của các khí thở hít, thời gian thở hít, kích thích các hạt thở hít chuyển tải khí độc tới các đơn vị phổi xa. Xuất tiết phế quản và co thắt phế quản được thấy rất sớm sau khi hít phải khói với khó thở, thở nhanh và nhịp tim nhanh. Sau đó có thể thở nặng nhọc, tím tái. Khám thực thể lúc này phát hiện thở khò khè lan tỏa và tiếng ran ngáy. Phù các tiểu phế quản và phù phổi do tăng thấm thành mạch (hội chứng suy hô hấp nguy kịch ở người ‘lớn - ARDS) có thể xảy ra 1 - 2 ngày sau khi hít khói.. Bong niêm mạc phế quản xảy ra trong 2 - 3 ngày dẫn đến tắc đường hô hấp, xẹp phổi và thiếu máu oxy. Sau khi hít khói 5 - 7 ngày thường nhiễm khuẩn và viêm phổi.
Điều trị biến chứng phổi do hít khói gồm cho thở oxy bổ sung, cho thuốc giãn phế quản, hút các mảnh niêm mạc và các xuất tiết nhầy mủ qua ống nội khí quản, lý liệu pháp lồng ngực để việc thanh thải các chất xuất tiết được dễ dàng và khí thở phải có đủ độ ẩm. Để điều trị phù các tiểu phế quản cần cho thở máy áp lực dương cuối thì thở ra (PEEP). Xử lý bằng truyền dịch hợp lý, theo dõi chặt chẽ nhiễm khuẩn thứ phát bằng cách hàng ngày lấy đờm nhuộm gram.
Việc dùng corticosteroid trong tổn thương phổi do hóa chất trong hít khói không có hiệu qủa thậm chí còn nguy hại. Dùng kháng sinh để phòng ngừa không cần thiết.
Các bệnh nhân còn sống phải được theo dõi viêm tiểu phế quản tắc nghẽn chậm sau này.
Bài viết cùng chuyên mục
Các hội chứng hít sặc ở phổi
Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.
Giãn phế quản
Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.
Các hội chứng chảy máu phế nang
Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.
Giảm thông khí phế nang tiên phát
Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.
Bệnh do mycobacteria không phải lao
Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.
Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng
Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.
Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan
Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao
Bệnh nấm aspergillus phổi phế quản dị ứng
Tiêu chuẩn chẩn đoán thứ đến là phân lập được aspergillus trong đờm, tiền sử có đờm lốm đốm máu, phản ứng bì muộn với kháng nguyên aspergillus.
Viêm phế nang xơ nguồn gốc ẩn
Điều trị gồm các biện pháp hỗ trợ, thở thêm oxy và corticosteroid. Corticosteroid thường chỉ định cho các bệnh nhân có các triệu chứng tăng dần hay chức năng phổi suy giảm.
Viêm mạch phổi và bệnh u hạt
Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.
Ung thư phổi thứ phát
Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD
Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.
Các bệnh phổi nghề nghiệp
Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.
Lao phổi: chẩn đoán và điều trị
Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.
Viêm tắc tiểu phế quản
Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.
Viêm khí phế quản cấp
Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.
Nốt phổi đơn độc
Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.
Bệnh xơ nang phổi
Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.
Tràn khí màng phổi tự phát
Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.
Viêm phổi
Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi.
Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)
Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.
Bệnh phổi do thuốc
Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.
Hen phế quản
Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.
Các bệnh phổi kẽ
Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.