Bệnh do mycobacteria không phải lao

2016-10-08 10:27 PM

Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Trong thiên nhiên ngoài mycobacteria tuberculosis còn nhiều loại mycobacteria khác (mycobacteria không điển hình) có ở khắp nơi. Chỉ có M. Hahsasii và M. avium intracellulare - cũng gọi là M. avium phức tạp (MAC) là những nguyên nhân quan trọng gây bệnh phổi ở người có thể phân biệt trên lâm sàng với  M.tuberculoris. Chẩn đoán dựa vào việc phát hiện chủng gây bệnh qua nuôi cấy nhiễm MAC do tỷ lệ bệnh nhân AIDS tăng vì thế trực khuẩn lao lan truyền và gây bệnh được ở bệnh nhân HIV âm tính, tổng số nhiễm khuẩn phổi do mycobacteria không lao tăng. Cấy đờm có trực khuẩn lao không điển hình không chứng tỏ sự hiện diện của trực khuẩn này vì nó có thể là thực vật hoại sinh trong đường hô hấp hay nhiễm từ môi trường cấy đờm dương tính có ý nghĩa khi có các tiêu chuẩn sau: (1) Bệnh nhân có hình ảnh X quang và lâm sàng phù hợp với chẩn đoán lao phổi và loại trừ được do các bệnh khác; (2) Có 2 mẫu đờm trở lên hoặc chất rửa phế quản soi trực tiếp hay nuôi cấy có trực khuẩn kháng acid. Kết qủa dương tính khi cấy các chất từ sinh thiết mô hay dịch màng phổi cũng giúp cho chẩn đoán. Các thử nghiệm độ nhạy cảm với thuốc khi nuôi cấy mycobacteria không lao nói chung không có ích lợi gì cho lâm sàng và thường không có chỉ định.

Bệnh do M. kansasii đáp ưng tốt với thuốc, chế độ hàng ngày cho rifampin, isoniazid và ethambutol trong 18 - 24 tháng là đủ.

Ngược lại MAC in vitro kháng với hầu hết thuốc kháng lao. Hầu hết bệnh nhân có tổn thương miễn dịch nhiễm khuẩn phổi bởi MAC là trung niên hay người lớn tuổi có bệnh phổi mạn tính cũ. Điều trị nhiễm MAC còn bàn cãi. Hoặc dùng chế độ tiêu chuẩn hoặc chế độ tùy từng người hoặc dùng isoniazid hoặc theo xét nghiệm về độ nhạy cảm với thuốc nhiều phương cách vì chưa có được dữ kiện và kinh nghiệm đầy đủ.

Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân. Phối hợp 3 hay 4 thuốc, clarithromycin với 2 hoặc 3 trong 5 thuốc sau đây (rifampin, ethambutol, clofazimin, amikacin và ciprofloxacin) bây giờ là điều trị được lựa chọn cho người không bị tổn thương miễn dịch mắc bệnh do MAC hoặc phối hợp rifampin, ethambutol, ciprofloxacin và clofazimin với amikacin hoặc không có amikacin. Các thuốc có tác dụng khác chống MAC là azithromycin, rifabutin (ansamycin), ethionamid, cycloserin và imipenem. Thời gian điều trị tối ưu chưa rõ nhưng nên tiếp tục 12 tháng sau khi đờm đã âm tính. Chữa bằng thuốc đầu tiên có kết qủa trong 2/3 trường hợp, nhưng sau thường tái phát. Kết qủa lâu dài ở các bệnh nhân điều trị thuốc chỉ chừng một nửa. Những người không đáp ứng thuận lợi với điều trị nói chung bệnh hoạt tính nhưng ổn định. Phẫu thuật cắt bỏ được tiến hành cho người có bệnh tiến triển nhưng đáp ứng không tốt với hóa trị liệu. Kết qua của phẫu thuật khả quan.

Việc lan truyền nhiễm MAC ở người còn khả năng miễn dịch thì hiếm. Ngược lại, bệnh nhân AIDS nhiễm MAC xảy ra có tính hệ thống và thường trong giai đoạn muộn. Tiên lượng trong những trường hợp như thế rất tồi. Việc điều trị nhiễm MAC ở bệnh nhân AIDS còn bàn cãi. Có nhiều cách phối hợp thuốc như clarithromycin, isoniazid, ethambutol, rifampin, clofazimin và ansamycin đã được tiến hành. Lợi ích còn chưa được chứng minh nhưng kinh nghiệm gần đây thấy nếu phối hợp thuốc thì các triệu chứng tốt hơn. Khuyến cáo mới đây về điều trị bệnh do bị lây nhiễm MAC là dùng clarithromycin hay azithromycin thêm với một hay nhiều thuốc sau: ethambutol, clofazimin, ciprofloxacin và amikacin. Phải điều trị ít nhất 18 - 24 tháng. Cycloserin và ethionamid nên tránh vì những tác dụng phụ khó chịu. Clarithromycin là một hứa hẹn mới thêm vào các thuốc điều trị nhiễm M. avium intracellulare ở bệnh nhân AIDS nhưng kinh nghiệm còn ít ỏi.

Ritabutin hiện nạy có hiệu qủa phòng nhiễm MAC lan tỏa ở bệnh nhân AIDS có xét nghiệm đếm tế bào CD4 thấp. Rifabutin (uống hàng ngày một lần 300 mg) dễ dung nạp, liều cao gây viêm màng mạch nhỏ.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh huyết khối tắc mạch phổi

Các phát hiện lâm sàng trong huyết khối tác nghẽn mạch phổi phụ thuộc vào kích thước cục tắc và trạng thái tim phổi trước đó. Trong nghẽn mạch phổi lớn, thất phải bị suy, huyết áp hệ thống hạ.

Giảm thông khí phế nang tiên phát

Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.

Tràn khí màng phổi tự phát

Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.

Các bệnh phổi nghề nghiệp

Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.

Thở không khí ô nhiễm

Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó.

Viêm màng phổi

Khi có tràn dịch màng phổi, dày màng phổi hoặc có khí trong khoang màng phổi phải có chẩn đoán và điều trị khác. Cũng cần nhắc lại rằng gẫy xương sườn có thể gây tràn dịch màng phổi nặng.

Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi

Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.

Ung thư trung biểu mô màng phổi

Tuổi trung bình khởi phát các triệu chứng ung thư trung biểu mô màng phổi ác tính khoảng 60 tuổi: Thời gian tiềm tàng từ khi tiếp xúc đến khi có các triệu chứng từ 20 đến 40 năm.

Các bệnh phổi kẽ

Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.

Tràn dịch màng phổi

Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.

Nốt phổi đơn độc

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.

Viêm tắc tiểu phế quản

Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.

Giãn phế quản

Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.

Các rối loạn thở liên quan đến ngủ

Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.

Tổn thương phổi do tia xạ

Xơ phổi do tia xạ xảy ra gần như trong tất cả bệnh nhân được nhận một tiến trình đầy đủ về điều trị bằng tia xạ trong ung thư phổi hoặc lồng ngực.

Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch

Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.

Các hội chứng hít sặc ở phổi

Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.

Hen phế quản

Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.

Viêm khí phế quản cấp

Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.

Các khối u lành tính của phổi

Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.

Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị

Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.

Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi

Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.

Hít phải khói

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.

Bệnh phổi do thuốc

Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.

Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản

Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.