Viêm tắc tiểu phế quản

2016-09-30 04:54 PM

Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các bệnh đường thở có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chia thành các đặc trưng về lâm sàng và sinh lý bệnh nào đó. Dòng khí bị giới hạn là đặc điểm và là hậu qủa của tắc nghẽn đường thở ngay ở trong lòng đường thở, thành khí đạo bị dầy lên, hay tổn thất các mô kẽ chống đỡ cần để giữ cho khí đạo thông thoáng. Tăng xuất tiết niêm dịch, đường thở bị kích thích, các bất thường về trao đổi khí gây ra ho, xuất tiết đờm, khò khè và khó thở.

Viêm tiểu phế quản là một bệnh hô hấp cấp tính nặng, thường gặp xảy ra ở trẻ em dưới 2 tuổi do virus hợp bào hô hấp, các virus khác (đôi khi gặp) và Mycoplasma pneumoniae gây ra. Viêm tiểu phế quản nhiễm khuẩn cấp không được coi như một thực thể riêng biệt ở người lớn. Tuy nhiên viêm tắc tiểu phế quản không có. Đã có lúc người ta xếp loại nó như một viêm phổi kẽ mạn tính, viêm tắc tiểu phế quản tới nay được xếp loại lại. Có 5 dạng lâm sàng được mô tả: 1) Viêm tắc tiểu phế quản do khói độc; 2) Viêm tắc tiểu phế quản sau nhiễm khuẩn; 3) Viêm tắc tiểu phế quản kết hợp với bệnh mô liên kết và ghép tạng; 4) Viêm tắc tiểu phế quản kết hợp với các tổn thương phổi khu trú; 5) Viêm tắc tiểu phế quản không rõ nguyên nhân với viêm phổi tổ chức hóa. Viêm tắc tiểu phế quản ở người lớn có thể không chẩn đoán ra. Ho, khó thở, nghe phổi có các rên nổ và có rối loạn thông khí phổi tắc nghẽn là những dấu hiệu đặc thù.

Viêm tắc tiểu phế quản do khói độc xảy ra sau 1- 3 tuần tiếp xúc với các oxyd nitrogen, phosgene và các khí có hại khác, Chụp X quang lồng ngực có đông đặc dạng "kính mờ" hay phế nang không đặc hiệu lan tỏa.

Viêm tắc tiểu phế quán sau nhiễm khuẩn là đáp ứng chậm với mycoplasma hay nhiễm virus phổi ở người lớn và có biểu hiện X quang có thể thay đổi nhiều.

Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Viêm khớp dạng thấp là biến chứng thường gặp khi ghép tim phổi và biến chứng ít gặp khi ghép tủy xương dị loài xảy ra như một bệnh lý mảnh ghép chống lại vật chủ.

Nhận biết viêm tắc tiểu phế quản kết hợp với viêm phổi tổ chức hóa (bronchiolitis obliterans with organizing pneumonia - BOOP) là rất quan trọng. Bệnh ảnh hưởng dến giới nam và nữ như nhau, bệnh nhân đa số tuổi 50 - 70, ho khan, khó thở, triệu chứng như cúm kéo dài từ ít ngày tới nhiều tháng, thường bệnh nhân sốt, sụt cân. Khám phổi nghe có nhiều ran nổ ở hầu hết các bệnh nhân, 1/3 có tiếng khò khè. Ít khi có móng tay khum, chức năng phổi thể hiện rối loạn thông khí hạn chế, thiếu oxy máu, X quang lồng ngực có những đám thâm nhiễm phế nang, hay các đám mờ như kính mờ ở cả hài phổi. Các thâm hhiễm giống như viêm phổi đơn độc và 'tổn thương kẽ lan tỏa gần đây cũng được mô tả.

BOOP chỉ dựa trên lâm sàng thôi thì rất khó chẩn đoán. Các triệu chứng sốt, sút cân, đột nhiên (thường với có nhiễm khuẩn đường hô hấp trên), các triệu chứng tồn tại tương đối trong thời gian ngắn, không có dấu hiệu móng lay khum, có các thâm nhiễm phế nang giúp cho người thầy thuốc lâm sàng phân biệt với bệnh xơ phổi không rõ nguyên nhân. Mô liên kết lỏng lẻo nảy chồi, các tế bào viêm chứa đầy phế nang và các tiểu phế quản xa. Liệu pháp corticosteroid có hiệu qủa trong 2/3 trường hợp tái phát thường xảy ra nếu ngừng corticosteroid sớm. Đa số bệnh nhân phải điều trị ít nhất 9 - 12 tháng. Prednison thường đầu tiên cho 1mg/kg/ngày trong 2 - 3 tháng rồi 20 - 40mg/ngày tùy đáp ứng của bệnh, cuối cùng chế độ giảm dần từng ngày.

Viêm tắc tiểu phế quản hô hấp là rối loạn đường thở ở những người trẻ hút thuốc lá. Về lâm sàng và X quang, rối loạn này giống như xơ phổi không rõ nguyên nhân. Ho, khó thở, nghe phổi có nhiều ran nổ là những dấu hiệu điển hình. Giãn suất phổi giảm có trong xơ phổi không rõ nguyên nhân không thấy có trong bệnh này. Chỉ có thể chẩn đoán rõ ràng bệnh khi làm sinh thiết phổi mở thấy có dị sản các tiểu phế quản tận và các tiểu phế quản hô hấp và trong các tiểu phế quản tận và tiểu phế quản hô hấp, các ống phế nang, các phế nang chứa đầy đại thực bào phế nàng có nhiều sắc tố.

Viêm toàn thể các tiểu phế quăn lan tỏa là rối loạn các tiểu phế quản hô hấp không rõ nguyên nhân thường gập ở Nhật Bản. Ở Hoa Kỳ ít khi gặp. Nam gặp nhiều gấp đôi nữ, bệnh nhân thường hầu hết ở tuổi giữa 20 và 80. Khoảng 2/3 bệnh nhân là không hút thuốc. Đa số có tiền sử viêm toàn thể các xoang. Khó thở, ho, nhiều đờm là các biểu hiện chính yếu. Khám phổi nghe có nhiều tiếng rên nổ, rên ngáy. Thử nghiệm chức năng phổi có rối loạn thông khí tắc nghẽn. Chụp X quang phổ có nhiều nốt lan tòa, hình phổi căng phồng. Sinh thiết phổi mở rất cần để làm chẩn đoán, sinh thiết thấy thành các tiểu phế quản dầy lên, Các tế bào viêm mạn tính nhiều, xâm nhập vào các mô quanh phế quản. Nhiễm khuẩn đường thở thường do loại P. aeruginosa. Ở các giai đoạn bệnh tiến triển thường có biểu hiện giãn phế quản. Điều trị chỉ là hỗ trợ bao gồm phải ngừng hút thuốc, cho thuốc giãn phế quản, kháng sinh, corticosteroid. Tiên lượng xấu, thường tiến triển nhanh đến một tình trạng xấu hơn.

Bài viết cùng chuyên mục

Các hội chứng chảy máu phế nang

Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.

Viêm khí phế quản cấp

Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.

Viêm màng phổi

Khi có tràn dịch màng phổi, dày màng phổi hoặc có khí trong khoang màng phổi phải có chẩn đoán và điều trị khác. Cũng cần nhắc lại rằng gẫy xương sườn có thể gây tràn dịch màng phổi nặng.

Các rối loạn thở liên quan đến ngủ

Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.

Viêm phổi

Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi.

Nốt phổi đơn độc

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.

Các bệnh phổi nghề nghiệp

Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi

Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.

Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi

Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.

Hen phế quản

Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.

Giãn phế quản

Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD

Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.

Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng

Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.

Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản

Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.

Hít phải khói

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.

Bệnh nấm aspergillus phổi phế quản dị ứng

Tiêu chuẩn chẩn đoán thứ đến là phân lập được aspergillus trong đờm, tiền sử có đờm lốm đốm máu, phản ứng bì muộn với kháng nguyên aspergillus.

Viêm mạch phổi và bệnh u hạt

Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.

Bệnh do mycobacteria không phải lao

Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.

Suy hô hấp cấp

Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.

Bệnh phổi do thuốc

Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.

Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị

Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.

Lao phổi: chẩn đoán và điều trị

Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.

Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.

Giảm thông khí phế nang tiên phát

Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.