- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp
- Viêm mạch phổi và bệnh u hạt
Viêm mạch phổi và bệnh u hạt
Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh u hạt Wegener là một bệnh tự phát biểu hiện bởi sự kết hợp viêm cầu thận, viêm mạch u hạt hoại tử của đường hô hấp trên và dưới và các mức độ khác nhau của viêm mạch của các mạch nhỏ. Thường có biểu hiện của viêm xoang mạn tính làm người bệnh khó chịu, các triệu chứng của phổi ít có hơn. Đau khớp, sốt, ban da, sụt cân là các triệu chứng thường gặp. Các thâm nhiễm nốt phức tạp, thường có hang, thấy trên phim X quang. Chít hẹp khí quản và bệnh trong lòng phế quản đôi khi có. Thiếu máu đẳng sắc, hồng cầu binh thường, tăng nhẹ bạch cầu và tăng tiểu cầu thường gặp. Thực tế mọi bệnh nhân đều có tốc độ lắng máu tăng. Mức tự kháng thể của bào tương kháng bạch cầu trung tính trong huyết thanh (ANCA) tăng trong khoảng 95% bệnh nhân có bệnh hoạt tính và trong nửa số người thuyên giảm. Chất đánh dấu này đặc hiệu cho chẩn đoán 99%. Để có chẩn đoán đặc hiệu từ trước đến nay cần yêu cầu sinh thiết phổi, mô xoang hoặc thận thấy có viêm mạch u hạt hoại tử. Với kinh nghiệm đo mức ANCA tăng trong huyết thanh, vai trò của sinh thiết mô trong việc giải quyết bệnh nhân không còn như trước.
Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình. Tạng nào cũng có thể bị tổn thương nhưng phổi, não và da thường hay bị nhất. Ngược với bệnh u hạt Wegener về lâm sàng, đường hô hấp trên và thận hiếm khi bị dù rằng các bằng chứng mô học của thâm nhiễm tế bào của thận thường thấp. Các tiểu cầu thận không bị tổn hại. X quang phổi có thể có nhiều thâm nhiễm nốt đa dạng hay các thâm nhiễm lưới lan tỏa. Chẩn đoán dựa trên các tổn thương đặc hiệu ở phổi, não và da qua xác định của xét nghiệm mô học. U hạt dạng u bạch huyết có tiên lượng xấu khi tiến triển thành u bạch huyết ác tính trong gần nửa số bệnh nhân.
Viêm mạch dị ứng và u hạt (hội chứng Churg - Strauss) là viêm mạch nhiều hệ thống tự phát của các động mạch cỡ trung bình và nhỏ xảy ra ở bệnh nhân hen, Các dạng mô học bao gồm các u hạt tế bào dạng biểu mô hoại tử dạng xơ. Thường thì da và phổi hay bị tổn thương nhất nhưng các tạng khác như tim, ống tiêu hóa, gan và thần kinh ngoại biên cũng có thể bị tăng bạch cầu ái toan ngoại vi rõ rệt. Các hình ảnh bất thường trên phim X quang lồng ngực đi từ các thâm nhiễm thoáng qua đến các nốt đa dạng. Bệnh này có thể là một phần của loại bệnh gồm viêm nhiều động mạch có nút.
Điều trị gồm phối hợp corticosteroid và cyclophosphamid. Uống prednison (1mg/kg thể trọng/ngày lúc khởi đầu, giảm dần tới điều trị cách quãng 3 - 6 tháng) là corticosteroid lựa chọn; trong u hạt Wegener một số thầy thuốc có thể không dùng các steroid. Đối với viêm mạch bùng phát điều trị có thể ban đầu cho methylprednisolon tiêm tĩnh mạch trong nhiều ngày. Cyclophosphamid (2mg/kg thể trọng/ngày lúc đầu có điều chỉnh liều để tránh giảm bạch cầu trung tính) cho uống hàng ngày ít nhất một năm sau khi bệnh đã thoái lui hoàn toàn. Tỷ lệ sống 5 năm ở các bệnh nhân có các hội chứng viêm mạch này nếu có điều trị phối hợp tới 90%.
Bệnh u hạt Wegener có thể khỏi hoàn toàn ở trên 90% các bệnh nhân. Nhiều báo cáo đã cho rằng thêm trimethoprim - sulfamethoxazol vào điều trị tiêu chuẩn có thể làm bệnh u hạt Wegener thoái lui nhưng các nghiên cứu về sau có kiểm soát về loại kháng sinh này còn chưa được nêu. Vai trò của trimethoprim - sulfamethoxazol còn bàn cãi. Nó chỉ nên dùng cho các bệnh nhân bị thể bệnh nhẹ và không có tổn thương thận.
Bài viết cùng chuyên mục
Các hội chứng chảy máu phế nang
Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.
Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng
Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.
Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)
Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.
Tắc đường hô hấp
Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.
Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi
Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.
Các khối u trung thất
CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện
Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.
Suy hô hấp cấp
Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.
Thở không khí ô nhiễm
Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó.
Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick
Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.
Bệnh do mycobacteria không phải lao
Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.
Hít phải khói
Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.
Viêm khí phế quản cấp
Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD
Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.
Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch
Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.
Các bệnh phổi nghề nghiệp
Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.
Giãn phế quản
Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.
Tràn dịch màng phổi
Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.
Hen phế quản
Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.
Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan
Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao
Ung thư phổi thứ phát
Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.
Bệnh xơ nang phổi
Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.
Tràn khí màng phổi tự phát
Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.
Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị
Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.
Lao phổi: chẩn đoán và điều trị
Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.
