Tăng áp lực động mạch phổi

2016-10-16 03:09 PM

Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu để chẩn đoán

Khó thở, mệt mỏi, đau ngực và đôi khi ngất khi gắng sức.

Tiếng tim thứ hai tách hẹp với tiếng dội to của động mạch phổi, các dấu hiệu của phì đại thất phải và suy tim trong bệnh tiến triển.

Thiếu oxy máu, thông khí vô ích trong các thử nghiệm chức năng phổi trong hầu hết các trường hợp.

Điện tâm đò có sự căng hoặc phì đại thất phải và giãn nhĩ phải.

Các động mạch phổi trung tâm giãn rộng trên phim X quang lồng ngực.

Nhận định chung

Tuần hoàn phổi là một vòng độc lập vì lưu lượng máu của nó cao, áp lực thấp (bình thường 25/8 mmHg, trung bình là 12) và sức trở kháng thấp (bình thường 200 - 250 dynes/giây)/cm-5). Nó có thể tăng lưu lượng lên nhiều cho phù hợp khi tập luyện nhưng chỉ tăng áp lực rất ít vì nó có khả năng giãn mạch và phục hồi lại. Tuần hoàn phổi binh thường cũng rất thụ động vì áp lực của nó chủ yếu phụ thuộc chức năng thất phải và thất trái. Sự co cơ trơn thành mạch tạo nên sức kháng của các tiểu động mạch phổi là một yếu tố quan trọng trong nhiều tình trạng bệnh lý.

Tăng áp lực động mạch phổi xảy ra khi áp lực động mạch phổi tăng lên tới mức cao không phù hợp với mức của cung lượng tim. Tăng áp lục động mạch phổi tiên phát (tự phát) là rối loạn ít thấy của tuần hoàn phổi xảy ra hầu hết ở người trẻ và phụ nữ trung niên. Nó đặc hiệu bởi sự khó thở tăng dần, qúa trình xuống dốc nhanh chóng và một kết thúc không tránh được. Tình trạng này cũng được gọi là bệnh mạch phổi sinh ra đám rối có liên quan tới tổn thương dạng đám rối có tính đặc hiệu của mô bệnh học tìm thấy trong các động mạch phổi cơ. Tăng huyết áp động mạch phổi thứ phát thường gặp hơn.

Các cơ chế được tuyển lựa gây ra tăng áp lực động mạch phổi thứ phát và các mẫu bệnh tương ứng được ghi trong bảng. Tăng áp lực động mạch phổi thường gây ra bởi sự giảm diện tích diện cắt của hệ mạch phổi ở động mạch, mao mạch hoặc tĩnh mạch. Thiếu oxy do bất kỳ nguyên nhân nào quan trọng nhất và là kích thích có hiệu lực gây co thắt động mạch phổi. Cơ chế tại sao thiếu oxy gây tăng áp lực động mạch phổi còn chưa được biết rõ. Các yếu tố tác động tới mức phế nang và kích thích trực tiếp cơ trơn tiểu động mạch đã được nêu tới. Sự quan tâm hiện nay tập trung vào sự giải phóng ra các chất có tác dụng co mạch của các tế bào nội mạc của động mạch phổi như yếu tố làm giãn mạch của tế bào nội mạc và endothelin - 1, một peptid co mạch có hiệu lực. Thiếu oxy có trách nhiệm cục bộ hay toàn thể làm tăng áp lực động mạch phổi đã được nhận thấy trong viêm phế quản mạn tính, bệnh phổi thâm nhiễm do các nguyên nhân gù vẹo cột sống, hội chứng giảm thông khí ở người béo phì, bệnh leo núi cao mạn tính, ngừng thở khi ngủ tắc nghẽn và bệnh thần kinh cơ. Toan hóa cũng là một kích thích có hiệu lực gây co thắt động mạch phổi và có tác động co mạch hiệp lực với thiếu oxy.

Bảng. Các cơ chế tăng áp lực động mạch phổi và những ví dụ về các điều kiện lâm sàng tương ứng.

Giảm diận tích mặt cắt của giưửng mạch phổi

Co thắt mạch.

Thiếu oxy do bất cứ nguyên nhân nào.

Toan hóa.

Mất mạch.

Cắt phổi.

Giãn phế nang.

Viêm mạch.

Xơ phổi.

Bệnh mô liên kết.

Tắc mạch.

Nghẽn mạch (huyết khối nghẽn mạch, nghẽn mạch do u, nghẽn mạch do dị vật v.v.).

Huyết khối tại chỗ.

Bệnh sán máng.

Hẹp lòng mạch.

Những thay dổi cấu trúc thứ phát do tăng áp lực động mạch phổi.

Tăng áp lực tính mạch phổi

Viêm màng ngoài tim co khít

Suy thất trái hoặc sức giãn của tlm giảm.

Hẹp van hai lá u niêm nhĩ trái.

Bệnh tắc tĩnh mạch phối.

Các bệnh trung thất dè ép các tĩnh mạch phổi.

Tăng dòng máu phổi.

Các nối tắt từ trái sảng phải trong tim bẩm sinh.

Tăng độ quánh máu.

Đa hồng cầu.

Hỗn tạp

Tăng áp lực động mạch phối xảy ra với sự kết hợp với xơ gan và tăng áp lực tĩnh mạch gánh.

Sự tắc rộng và tắc nghẽn của cây mạch phổi có thể gây ra tăng áp lực động mạch phổi. Một khi có rồi, tâng áp lực động mạch phổi tự nó tiếp diễn mãi. Nó tạo nên những bất thường về cấu trúc thứ phát trong mạch phổi gồm có phì đại cơ trơn và táng sinh nội mạc mạch và những điều này có thể kích thích thường xuyên gây những biến đổi vữa xơ mạch và huyết khối tại chỗ dẫn đến làm hẹp giường mạch.

Áp lực tĩnh mạch phổi tăng, khi kéo dài có thể gây tăng áp lực động mạch phổi "sau mao mạch", suy thất trái (tâm thu, tâm trương hay cả hai) là nguyên nhân thường thấy nhất.

Bệnh tắc tĩnh mạch phổi là nguyên nhân hiếm gặp của tăng áp lực động mạch phổi sau mao mạch xảy ra ở trẻ em và người còn trẻ. Nguyên nhân không rõ nhưng những sự kết hợp với các điều kiện khác như nhiễm virus, ghép tủy xương, trị liệu hóa học và những biến đổi ác tính đã được nêu đến. Bệnh đặc trưng bởi tắc nghẽn tạo xơ tiến triển của các tĩnh mạch phổi và các tiểu tĩnh mạch phổi, những thay đổi tăng huyết áp thứ phát trong các tiểu động mạch phổi và các động mạch phổi cơ. Các vùng có nốt xung huyết phổi, phù, chảy máu và nhiễm hemosiderin cũng tìm thấy trên phim X quang phổi. Chụp X quang lồng ngực phát hiện có các đường Kerley B, các vết của mô kẽ đối xứng đáng chú ý, giãn động mạch phổi, nhĩ trái và thất trái có kích thưốc bình thường. Chẩn đoán trước khi chết thường khó nhưng đôi khi chẩn đoán được khi sinh thiết phổi mở. Điều trị không có hiệu qủa, hầu hết bệnh nhân chết trong vòng 2 năm do tăng áp lực động mạch phổi tiến triển.

Tăng áp lực động mạch phổi được nhận biết khi có nguyên nhân rõ ràng như bị COPD nặng. Ở người lớn tuổi, tăng áp lực động mạch phổi nếu không phải do COPD thì thường do huyết khối nghẽn mạch phổi mạn tính, xơ kẽ, ngừng thở khi ngủ hoặc hội chứng giảm thông khí do béo phì. Các rối loạn khác được nêu trong bảng cần loại trừ trước khi chẩn đoán tăng áp lực động mạch phổi tiên phát được nêu lên.

Các triệu chứng và các dấu hiệu

Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi. Tăng áp lực động mạch phổi có thể gây ra hay đóng góp vào sự khó thở, lúc đầu là khi gắng sức, sau đó cả khi nghỉ. Gõ đục, đau vùng sau xương ức giống như cơn đau thắt ngực có thể xảy ra. Mệt, ngất khi gắng sức do giảm cung lượng tim vì áp lực động mạch phổi tăng hoặc do chậm nhịp tim.

Các dấu hiệu của tăng áp lực động mạch phổi gồm có sự tách hẹp của tiếng tim thứ hai, tiếng tim thứ hai dội lên ở ổ động mạch phổi, tiếng click phát máu thl tâm thu. Trong các trường hợp tiến triển, có suy van động mạch phổi và van ba lá khi đó có các dấu hiệu của suy thất và tâm phế.

Xét nghiệm

Nhiều trường hợp tăng áp lực động mạch phổi có đa hồng cầu kết hợp với thiếu oxy máu. Các thay đổi điện tim là các thay đổi trục chuyển phải, phì đại thất phải, căng giãn thất phải hay giãn rộng nhĩ phải.

Chẩn đoán hình ảnh và các xét nghiệm đặc biệt

Các hình ảnh có trên X quang tùy thuộc vào nguyên nhân gây tăng áp lực động mạch phổi. Trong bệnh mạn tính, đường chảy ra của động mạch phổi cũng thấy rõ, trong bệnh tiến triển, thất phải và nhĩ phải giãn rộng. Hình,"cắt cụt" ngoại biên của các động mạch phổi là đặc điểm của tăng áp lực động mạch phổi trong giãn phế nang nặng.

Tâm thanh đồ giúp cho việc đánh giá bệnh nhân hẹp van hai lá, u niêm nhĩ trái và bệnh van động mạch phổi. Tâm thanh đồ cũng giúp phát hiện giãn thất phải và sự vận động ngược chiều của vách liên thất. Chụp siêu âm Doppler là phương cách không gây tổn thương để đánh giá áp lực động mạch phổi thì tâm thu. Tuy nhiên các phương pháp về huyết động chính xác khác có thể chỉ được tiến hành với thông tim phải, phương pháp này hữu ích khi có tăng huyết áp động mạch phổi sau mao mạch, nối tắt trong tim hoặc bệnh huyết khối nghẽn mạch để giúp chẩn đoán phân biệt.

Các thử nghiệm chức năng phổi thường qui không giúp gì cho việc chẩn đoán tăng áp lực động mạch phổi. Giảm giường mạch phổi có thể gây giảm khả năng khuếch tán.

Tùy thuộc vào các nguyên nhân nghi gây ra tăng áp lực động mạch phổi mà scan phổi thông khí/tưới máu, chụp mạch phổi và sinh thiết phổi mở đôi khi giúp ích. Scan phổi, thông khí/tưới máu rất hữu ích trong việc nhận dạng bệnh nhân tăng áp lực động mậch phổi do huyết khối nghẽn mạch phổi hồi qui. Sinh thiết xuyên phế quản có thể làm tăng nguy cơ chảy máu.

Điều trị

Điều trị tăng áp lực động mạch phổi tiên phát được nêu. Điều trị tăng áp lực động mạch phổi thứ phát gồm có chủ yếu là điều trị các rối loạn do bệnh nguyên nhân như COPD, ngừng thở khi ngủ, hội chứng giảm thông khí, béo phì và hẹp van hai lá. Nhận biết sớm tăng áp lực động mạch phổi là cốt yếu để ngừng chu trình tự làm cho bệnh duy trì đã gây ra sự tiến triển nhanh chóng của bệnh. Trong thời gian hầu hết các bệnh nhân có các dấu hiệu và triệu chứng của tăng áp lực động mạch phổi trong một thời gian nào đó. Nếu phát hiện được thiếu oxy máu hay toan hóa thì phải tiến hành các biện pháp sửa chữa ngay, cho oxy bổ sung trong ít nhất 15 giơ một ngày đã chứng minh là có ích ở các bệnh hhân COPD thiếu oxy máu.

Các rối loạn khác gây tăng áp lực động mạch phổi phải được điều trị thích hợp. Bệnh nhân có các tư liệu huyết khối nghẽn mạch phổi hồi qui nên cho điều trị chống đông lâu dài. Một số thầy thuốc dùng cách điều trị này cho tăng áp lực động mạch phổi nguyên nhân chưa rõ khi cục huyết khối động mạch phổi dù rất nhỏ, đa dạng, nhưng có thể tạo ra được bệnh cảnh này mà về lâm sàng khó nhận biết. Tăng áp lực động mạch phổi sau mao mạch thường đáp ứng với việc điều trị bệnh tim gây ra nó.

Điều trị thuốc giãn mạch dùng nhiều dược phẩm (ví dụ các chất đối kháng calci, hydralazin, isoproterenol, diazoxid, nitroglycerin) trong trường hợp tăng áp lực động mạch phổi tiên phát và một số bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi thứ phát nhưng kết qủa không tốt. Một số thuốc đó chỉ cho hiệu qủa khả quan trong một thời gian ngắn còn nói chung không cải thiện được tình hình. Các biến chứng của trị liệu giãn mạch phổi đã xảy ra gồm hạ huyết áp, thiếu oxy máu, kể cả có tử vong. Dùng chúng trong trị liệu hàng ngày không được đặt ra. Truyền dài ngày liên tục prostacyclin (PGI2; epoprostenol) một chất giãn mạch phổi có hiệu lực cải thiện được về triệu chứng và về huyết động trong một số bệnh nhân được chọn lọc.

Điều quan trọng là phải phân biệt tăng áp lực động mạch phổi với co thắt mạch phổi có thể phục hồi đựợc, do tắc cố định giường mạch phổi. Các bệnh nhân hầu hết tốt hơn khi trị liệu giãn mạch phổi dài ngày là những người đáp ứng tốt với thách thức giãn mạch khi thông tim phải. Rõ ràng rằng trị liệu giãn mạch dài ngày chỉ nên dùng nếu có được lợi ích về huyết động. Một số chuyên gia khuyến cáo nghiên cứu đánh giá huyết động cơ sở bằng thông tim phải và sau khi cho uống thuốc giãn mạch như loại chẹn kênh calci lại đo lại. Trị liệu giãn mạch dùng thường qui không được khuyến cáo.

Bệnh nhân có đa hồng cầu rõ rệt (hematocrit trên 60%) nên trích máu tĩnh mạch để làm giảm độ quánh máu. Bệnh tâm phế mạn biến chứng của tăng áp lực động mạch phổi điều trị bằng giải quyết bệnh phổi nguyên nhân, cho lợi niệu, hạn chế ăn muối và tùy bệnh nhân cho bổ sung thêm oxy. Việc cho digitalis trong tâm phế mạn còn bàn cãi. Cắt bỏ huyết khối màng trong động mạch có thể tốt cho các bệnh nhân được chọn lựa, có tăng áp lực động mạch phổi thứ phát do các tắc nghẽn vì huyết khối mạn tính ở các động mạch phổi lớn.

Ghép phổi một bên hay hãi bên (xem chương 9) có thể tiến hành trên bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi tiên phát giai đoạn cuối. Tỷ lệ sống được 2 năm là 49%. Viêm tiểu phế quản tắc nghẽn thường thấy xảy ra ở những người được làm phẫu thuật này.

Tiên lượng

Tiên lượng của tăng áp lực động mạch phổi thứ phát tùy thuộc vào tiến trinh của bệnh chính gây ra nó. Bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi do tắc nghẽn cố định giường mạch phổi nói chung đáp ứng yếu với trị liệu nếu bệnh phát triển thành tâm phế mạn thì tiên lượng kém. Tiên lượng là hứa hẹn nếu tăng áp lực động mạch phổi được phát hiện sớm và các điều kiện dẫn đến điều đó được đảo ngược nhanh.

Bài viết cùng chuyên mục

Tràn khí màng phổi tự phát

Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.

Tràn dịch màng phổi

Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.

Viêm màng phổi

Khi có tràn dịch màng phổi, dày màng phổi hoặc có khí trong khoang màng phổi phải có chẩn đoán và điều trị khác. Cũng cần nhắc lại rằng gẫy xương sườn có thể gây tràn dịch màng phổi nặng.

Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.

Suy hô hấp cấp

Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.

Hội chứng tăng thông khí

Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.

Các rối loạn thở liên quan đến ngủ

Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.

Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick

Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.

Giảm thông khí phế nang tiên phát

Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.

Tổn thương phổi do tia xạ

Xơ phổi do tia xạ xảy ra gần như trong tất cả bệnh nhân được nhận một tiến trình đầy đủ về điều trị bằng tia xạ trong ung thư phổi hoặc lồng ngực.

Bệnh phổi do thuốc

Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.

Các bệnh phổi nghề nghiệp

Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.

Các hội chứng hít sặc ở phổi

Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.

Hít phải khói

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.

Thở không khí ô nhiễm

Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó.

Bệnh huyết khối tắc mạch phổi

Các phát hiện lâm sàng trong huyết khối tác nghẽn mạch phổi phụ thuộc vào kích thước cục tắc và trạng thái tim phổi trước đó. Trong nghẽn mạch phổi lớn, thất phải bị suy, huyết áp hệ thống hạ.

Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan

Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao

Nhiễm protein phế nang phổi

Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.

Các hội chứng chảy máu phế nang

Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.

Viêm mạch phổi và bệnh u hạt

Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.

Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị

Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.

Viêm phế nang xơ nguồn gốc ẩn

Điều trị gồm các biện pháp hỗ trợ, thở thêm oxy và corticosteroid. Corticosteroid thường chỉ định cho các bệnh nhân có các triệu chứng tăng dần hay chức năng phổi suy giảm.

Các bệnh phổi kẽ

Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.

Các khối u trung thất

CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.

Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi

Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.

Các khối u lành tính của phổi

Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.

Ung thư trung biểu mô màng phổi

Tuổi trung bình khởi phát các triệu chứng ung thư trung biểu mô màng phổi ác tính khoảng 60 tuổi: Thời gian tiềm tàng từ khi tiếp xúc đến khi có các triệu chứng từ 20 đến 40 năm.

Ung thư phổi thứ phát

Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.

Nốt phổi đơn độc

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.

Bệnh do mycobacteria không phải lao

Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.

Lao phổi: chẩn đoán và điều trị

Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.

Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch

Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.

Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi

Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.

Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng

Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.

Viêm phổi

Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi.

Viêm khí phế quản cấp

Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.

Viêm tắc tiểu phế quản

Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.

Giãn phế quản

Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.

Bệnh nấm aspergillus phổi phế quản dị ứng

Tiêu chuẩn chẩn đoán thứ đến là phân lập được aspergillus trong đờm, tiền sử có đờm lốm đốm máu, phản ứng bì muộn với kháng nguyên aspergillus.

Tắc đường hô hấp

Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.

Bệnh xơ nang phổi

Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD

Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.

Hen phế quản

Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.

Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản

Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi

Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.

Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản

Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.