Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD

2016-09-16 04:21 PM

Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các bệnh đường thở có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chia thành các đặc trưng về lâm sàng và sinh lý bệnh nào đó. Dòng khí bị giới hạn là đặc điểm và là hậu qủa của tắc nghẽn đường thở ngay ở trong lòng đường thở, thành khí đạo bị dầy lên, hay tổn thất các mô kẽ chống đỡ cần để giữ cho khí đạo thông thoáng. Tăng xuất tiết niêm dịch, đường thở bị kích thích, các bất thường về trao đổi khí gây ra ho, xuất tiết đờm, khò khè và khó thở.

Những điểm thiết yếu để chẩn đoán

Tiền sử hút thuốc lá (hầu hết các trường hợp).

Ho mạn tính, có đờm (trong viêm phế quản mạn tính), khó thở (trong giãn phế nang).

Khám lâm sàng có rên ngáy, rì rào phế nang giảm, thì thở ra kéo dài.

Thử nghiệm chức năng phổi thấy có giới hạn dòng khí.

Nhận định chung

Thuật ngữ bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (chronic obstructive pulmonaiy disease - COPD) đồng nhất với bệnh nhân có giãn phế nang hay viêm phế quản mạn tính, Dù giãn phế nang (GPN) và viêm phế quản mạn tính (VPQMT) được chẩn đoán và điều trị như những bệnh nhân riêng biệt nhưng hầu hết bệnh nhân COPD có những điểm đặc trưng của cả hai. Khoảng 10 triệu người Mỹ bị loại bệnh này. COPD và hen đứng hàng thứ năm trong các nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Mỹ. Tỷ lệ tử vong do COPD tăng, đặc biệt ở người lớn tuổi.

Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên. Giãn phế nang biểu thị bằng sự giãn rộng thường xuyên, bất thường của phế nang tới các tiểu phế quản tận kèm theo có sự phá hủy vách phế nang, không gây xơ (hội lồng ngực Mỹ). Hút thuốc lá rõ ràng là nguyên nhân quan trọng nhất của COPD dù chỉ 10 - 15% người hút trở nên COPD. Ô nhiễm không khí, nhiễm khuẩn đường thở, các yếu tố về gia đình, dị ứng có liên quan tới viêm phế quản mạn tính và các yếu tố di truyền (thiếu hụt alpha 1 - antiprotease có liên quan tới giãn phế nang. Bệnh sinh của giãn phế nang có thể là do có sự tiêu tan qúa nhiều chất elastin và các protein cấu trúc khác trong bộ khung của phổi do elastase và các protease khác của bạch cầu, đại thực bào phế nang và các tế bào đơn nhân của phổi. Tạng dị ứng và khuynh hướng co thắt phế quản để đáp ứng với kích thích đường hô hấp không đặc hiệu có thể là những nguy cơ quan trọng của COPD.

Triệu chứng

Các nghiên cứu về lâm sàng, X quang, xét nghiệm trong viêm phế quản mạn tính và giãn phế nang được tóm tắt trong bảng.

Bệnh nhân COPD biểư hiện bệnh khi 50 - 60 tuổi, ho nhiều, đờm nhiều, hơi thở ngắn có từ 10 năm trước hay hơn. Ho có đờm thường về buổi sáng. Khó thở đầu tiên khi gắng sức, sau bệnh phát triển chỉ hoạt động nhẹ cũng khó thở. Khi bệnh nặng khó thở cả khi nghi ngơi. Thường bệnh nặng lên làm cho phải nghỉ việc hay giảm khả năng làm việc. Viêm phổi, tăng áp lực động mạch phổi, tâm phế và suy hô hấp mạn đặc trưng cho COPD ở giai đoạn muộn. Tử vong thường xảy ra trong đợt bệnh tăng kèm theo có suy hô hấp cấp. Đôi khi có ho ra máu, thường do dùng aspirin có tác dụng chống tiểu cầu.

Các phát hiện lâm sàng có thể hoàn toàn không thấy khi COPD ở giai đoạn sớm. Khi bệnh tăng có thể thấy rì rào phế nang giảm, thì thở ra kéo dài. Các thăm khám lâm sàng được nêu trong bảng thể hiện rõ khi bệnh tiến triển

Xét nghiệm

Đa hồng cầu có thể thấy trong COPD tiến triển do thiếu oxy gây ra. Trong đợt bệnh tăng, xét nghiệm đờm có thể phát hiện ra phế cầu, Hemophilus influenzae hay Moraxella catarrhalis. Điện tim có thể thấy nhịp nhanh xoang và trong đợt bệnh tiến triển có thế thấy hình ảnh điện tim bất thường của tâm phế mạn do tăng áp lực động mạch phổi gây ra. Loạn nhịp trên thất (nhịp nhanh nhĩ nhiều ổ, rung nhĩ), kích đọng nhĩ có thể xảy ra.

Bảng. Đối chiếu giãn phế nang và viêm phế quản mạn tính: Lâm sàng, X quang và xét nghiệm*.

 

Giãn phế nang

Viêm PQ mạn tính

Lịch sử bệnh

Khởi phát triệu chứng

Trên 50 tuổi

Trên 35 tuổi

Khó thở

Tăng tiến, hằng định, nặng

Từng lúc, nhẹ đến vừa

Ho

Không có hoặc nhẹ

Lâu, nặng

Xuất tiết đờm

Không có hoặc nhẹ

Nhiều

Trạng thái đờm

Trong dạng nhày

Nhày mủ hay mủ

Các đặc điểm khác

Sụt cân **

Nhiễm khuẩn đường thở

Suy tim phải

Béo bệu

Khám xét lâm sàng

Hình thái cơ thể

Gày, hao mòn**

Bè bè, bệu

Tím tái trung ương

Không

Tình trạng da huyết

Không

Các cơ hô hấp phụ

Phì đại

Không có gì đáng chú ý

Đường kính lồng ngực trước sau

Tăng

Bình thường

Vang

Bình thường

Nghe

Rì rào phế nang giảm

Khò khè, rên ngáy

X quang lồng ngực

Bóng khí

Không

Thể hiện chung

Vân phổi ở ngoại vi giảm

Tăng các vết ở ngoại vi “phổi bẩn”

Lồng ngực phồng căng

Không

Vị trí tim

Bình thường hoặc nhỏ, tim dài

Rộng nằm ngang

Vòm hoành

Thấp, dẹt

Bình thường, tròn

Xét nghiệm

Hematocrit

Bình thường

Tăng

Điện tim

Bình thường

Trục phải, thất phải phì đại, P phế

Thiếu ô xy máu

Không hoặc nhẹ

Vừa hoặc nặng

Ưu thán

Không

Vừa hoặc nặng

Toan hô hấp

Không

Dung tích phổi toàn thể

Tăng

Bình thường

Giãn xuất phổi tĩnh

Tăng

Bình thường

Khả năng khuếch tán

Giảm

Bình thường

* Như đã nêu, hầu hết bệnh nhân COPD có cả giãn phế nang và viêm phế quản mạn tính.

** Trong bệnh tiến triển.

Đo khí máu các bất thường sớm ở bệnh nhân COPD không biểu hiện do đó không cần làm trừ khi nghi ngờ có thiếu oxy hoặc ưu thán, Thiếu oxy xuất hiện khi bệnh tiến triển, đặc biệt khi viêm phế quản mạn tính trội lên. Toan hô hấp bù trừ có trong các bệnh nhân suy hô hấp mạn, đặc biệt là bệnh nhân viêm phế quản mạn tính khi có các đợt tăng bệnh cấp, tình trạng toan hóa càng nặng.

Đo phế dung cho ta những thông tin khách quan về chức năng phổi và cho phép đánh giá kết qủa điều trị. Các test chức năng phổi sớm trong COPD chí phát hiện có rối loạn chức năng trong các đường hô hấp nhỏ (thể tích đóng kln bất thường, giảm tỷ lệ dòng thở ra nửa chừng). FEV1 giảm và muộn giảm thể tích thở ra gắng sức so với dung tích sống gắng sức (FEV1, FVC) xảy ra muộn hơn. Khi bệnh nặng, dung tích sống gắng sức giảm rõ rệt. Đo thể tích phổi phát hiện tăng dung tích phổi toàn thể (total lung capacity - TLC), tăng thể tích cặn (residual volume - RV) rõ rệt và tăng tỷ số RV: TLC, chỉ số cho biết khí thở bị cạm giữ lại như thế nào đặc biệt trong giãn phế nang

Chẩn đoán hình ảnh

Khi giãn phế nang là đặc điểm lâm sàng chủ yếu thì hình ảnh là căng phổi rõ. Bóng khí của nhu mô phổi hay các bóng khí dưới màng phổi là đặc trưng của giãn phế nang. Hình ảnh X quang của bệnh nhân viêm phế quản mạn tính có thể thấy những vết quanh mạch máu và quanh phế quản không đặc hiệu. Tăng áp lực động mạch phổi thấy qua hình ảnh các động mạch phổi giãn rộng khi bệnh tiến triển. Siêu âm tim Doppler là phương sách hiệu qủa để đánh giá áp lực động mạch phổi nếu nghi ngờ có tăng áp lực động mạch phổi. Chụp cắt lớp điện toán có thể phát hiện giãn phế nang còn chưa thấy rõ trên phim X quang lồng ngực nhưng rất đắt và do đó ít có chỉ định.

Chẩn đoán phân biệt

Điều quan trọng là phải phân biệt COPD với các bệnh phổi khác. Chẩn đoán COPD thường làm bừa bãi. Phải nhớ rằng (1) COPD chẩn đoán không đơn giản chỉ dựa vào tiến sử hút thuốc lá nặng, (2) các phát hiện rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn trên phế dụng kế không thể căn cứ để chấn đoán COPD, (3) rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn không cần phải có để chẩn đoán viêm phế quản mạn tính hay giãn phế nang. Hầu hết - nhưng không phải là tất cả - bệnh nhân viêm phế quản mạn tính hay giãn phế nang có tắc nghẽn dòng khí khi đo phế dung lâm sàng, X quang và xét nghiệm labô có thể giúp thầy thuốc thực hành phân biệt COPD với các rối loạn phổi tắc nghẽn khác như hen phế quản, giãn phế quản, xơ nang, nấm aspergillus phổi phế quản và tắc nghẽn đường thở trung ương. Giãn phế quản phân biệt với COPD do các đặc điểm như viêm phổi hồi qui va ho ra máu, ngón tay dùi trống và các hình ảnh X quang bất thường. Bệnh nhân thiếu alpha 1 - antiprotease nặng thể hiện bằng có giãn phế nang toàn tuyến nang rất sớm, thường khoảng 30 - 40 tuổi, có thể có xơ gan, carcinoma tế bào gan. Xơ nang xảy ra ở trẻ nhỏ và vị thành niên. Hiếm hơn thì tắc nghẽn cơ học của đường hô hấp trung ương kích thích COPD. Đường cong thể tích - dòng khí có thể giúp phân tách bệnh nhân tắc nghẽn đường hô hấp trung ương với tắc nghẽn đường hô hấp trong lồng ngực lan tỏa là đặc hiệu của COPD.

Biến chứng

Viêm phế quản cấp, viêm phổi, tắc mạch phổi và suy thất trái đồng thời có thể làm xấu đi sự ổn định của COPD. Tăng áp lực động mạch phổi, tâm phế và suy hô hấp mạn tính thường gặp trong COPD tiến triển. Tràn khí màng phổi tự phát xảy ra trong một số bệnh nhân có giãn phế nang. Ho ra máu có thể do viêm phế quản mạn tính hay là báo hiệu của carcinoma phế quản.

Phòng bệnh

COPD có thể phòng ngừa rộng rãi được. Người nghiện hút thuốc lá có rối loạn chức năng đường thở nhỏ được phát hiện sớm, được điều trị thích hợp, ngừng hút có thể phòng ngừa được sự tiến triển của bệnh. Điều trị sớm các nhiễm khuẩn đường thở, tiêm chủng phòng cúm và phế cầu có thể có ích nhưng không ảnh hưởng đến sự tiến triển của bệnh.

Điều trị

Giải quyết COPD bao gồm bỏ thuốc lá, giáo dục về bệnh tật cho người bệnh, giảm co thắt phế quản, điều trị khí dung, lý liệu pháp lồng ngực, điều trị các biến chứng như nhiễm khuẩn đường thở, suy tim, oxy hỗ trợ và các biện pháp khác giúp phục hồi chức năng.

Bệnh nhân ngoại trú

Các biện pháp duy trì sức khỏe cho bệnh nhân hen phế quản cũng quan trọng cho bệnh nhân COPD. Mục tiêu của điều trị COPD gồm giải quyết được các triệu chứng, cải thiện khả năng làm việc thường ngày, giảm khả năng vào viện và phục hồi sức khỏe. Giải quyết được các nhiễm khuẩn hô hấp nặng và hay gặp và các đợt tiến triển cấp của COPD cũng quan trọng.

Thử nghiệm dùng các thuốc giãn phế quản có thể đảm bảo ở mọi bệnh nhân có COPD triệu chứng. Hít ipratropium bromid hay các thuốc giống thần kinh giao cảm là trụ cột của trị liệu này. Đáp ứng với trị liệu giãn phế quản được đánh giá bằng đo phế dung. Bệnh nhân có viêm phế quản thể hen và các bệnh nhân tắc nghẽn đường thở phục hồi được từng phần, đợt bệnh vượng cấp thường gặp hay thở khò khè có thể có lợi khi trị liệu giãn phế quản. Việc dùng thường qui các thuốc giãn phế quản cho mọi bệnh nhân GOPD còn tranh cãi. Các thuốc này có lẽ có giá trị nhỏ bé với bệnh nhân giãn phế nang đơn thuần nếu thử nghiệm lâm sàng thuốc giãn phế quản qua nhiều tháng mà không cải thiện được về triệu chứng và các dấu hiệu khách quan (đo phế dung) thì nên ngừng, dù sao đó cũng không phải là trường hợp thường gặp.

Ipraíropium bromid so với khí dung thuốc giống thần kinh giao cảm thì tốt hơn trong việc giãn phế quản ở bệnh nhân COPD vừa hay nặng. Ipratropium bắt đầu tác dụng chậm hơn nhưng kéo dài hơn so với các thuốc tác dụng giống thần kinh giao cảm ở các bệnh nhân COPD ổn định. Phối hợp với các thuốc giãn phế quản khác, nó tăng cường và kéo dài tác dụng giãn phế quản, tác dụng phụ rất ít, tác dụng trên xuất tiết đờm và độ quánh của đờm có thể bỏ qua. Cần hít 2- 4 lần (mỗi lần 18 µg) mỗi 6 giờ. Ipratropium bromid cũng có thể dùng đường khí dung (dung dịch 0,02 %), một lọ liều đơn vị (500 µg) cho mỗi 6 - 8 giờ.

Điều trị duy trì bằng theophyllin uống ở bệnh nhân COPD ngoại trú còn tranh luận. Dẫu sao theophyllin có tác dụng giãn phế quản ở bệnh nhân COPD, phục hồi một phần các giới hạn về dòng khí, giá trị chính của nó trong COPD có lẽ liên quan đến sự cải thiện trong hoạt động của cơ hô hấp. Các cải thiện trong khó thở, tập luyện, chức năng phổi được báo cáo trong một số nghiên cứu nhưng không được nêu trong các nghiên cứu khác. Nhiều nghiên cứu nêu rằng uống theophyllin loại giải phóng chậm cải thiện được độ bão hòa oxyhemoglobin trong khi ngủ ở bệnh nhân COPD. Nhiều chuyên gia phổi học nhìn nhận theophyllin uống như một tác nhân hàng thứ ba trong COPD - sau ipratropium và các thuốc tác dụng giống thần kinh giao cảm - dùng nó cho các bệnh nhân không đáp ứng với các thuốc giãn phế quản dùng cách thở hít hay các bệnh nhân có rối loạn hô hấp khi ngủ. Dùng theophyllin giống như trong hen. Liều theophyllin hàng ngày một lần, tốt nhất vào lúc 8 giờ tối được một số tác giả nêu. Bệnh nhân COPD vừa và nặng thường điều trị phối hợp ipratropium, chủ vận bêta và theophyllin nhưng không có sự nhất trí rằng cách điều trị phối hợp này có hiệu qủa.

Cosrticosteroid dùng đường uống cũng cho như trong hen. Những bệnh nhân được dùng corticosteroid đường uống gồm các bệnh nhân viêm phế quản thể hen và các đợt vượng bệnh thường thấy hay các triệu chứng mà điều trị thường qui bằng ipratropium bromid, thuốc tác dụng giống thần kinh giao cảm và theophyllin thất bại, bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi hay trong đờm cũng có thể dự đoán sự đáp ứng. Corticosteroid nên ngừng sau 2- 4 tuần nếu không có dấu hiệu khách quan là có cải thiện (đo phế dung), cho corticosteroid đường thở có thể có giá trị với bệnh nhân có đáp ứng với corticosteroid, đặc biệt với người đòi hỏi dưới 20mg prednison (hay tương đương) mỗi ngày. Thở corticosterọid cho phép không dùng trị liệu toàn thân. Cromolyn không có vai trò trong điều trị viêm phế quản mạn tính hay giãn phế nang, với người viêm phế quản thể hen mạn tính có thể tốt.

Vệ sinh khí quản làm giảm xuất tiết phổi phế quản và tăng sự vận động và thanh thải của phế quản. Ngừng hút thuốc lá, tránh các chất kích thích đường thở và các dị nguyên, kiểm soát được nhiễm khuẩn đường thở bằng các kháng sinh đường uống phổ rộng, phòng ngừa được các sặc hít phổi có thể làm giảm xuất tiết dòm. Nếu nghi ngờ có nhiễm khuẩn đường thở có thể cho amoxicillin (500mg mỗi 8 giờ), ampicillin hay tetracyclin (250 - 500mg ngày 4 lần) hay trimetroprim - sulfamethoxazol (160/800mg mỗi 12 giờ) đường uống trong 7 - 10 ngày. Amoxicillin - potassium clavulanat (500mg mỗi 8 giờ) có hiệu qủa nhưng đắt tiền hơn dù rằng điều trị kháng sinh theo thường lệ các đợt vượng bệnh của COPD còn tranh cãi, bệnh nhân COPD có khó thở tăng, đờm mủ đặc biệt có ích lợi khi dùng kháng sinh. Kẹo cao su nicotin (các mảnh 2mg nhai chậm trên 30 phút) và cao dán nicotin giúp ích cho cai các thuốc lá.

Tăng vận động khí quản và xuất tiết có thể được tiến hành bằng bồi phụ nước đầy đủ, tập ho khạc cho hiệu qủa, dẫn lưu tư thế, đôi khi bằng vỗ rung lồng ngực. Một phương pháp ho có hiệu qủa là bệnh nhân tựa về phía trước và ho hắng nhiều lần xen kẽ những lần ngừng để thở. Không nên ho kịch phát gắng sức. Đôi khi khí dung bằng dung dịch nước rất tốt. Dẫn lưu tư thế và vỗ rung lồng ngực chỉ nên dùng cho các bệnh nhân chọn lựa có nhiều đờm mà không thể thải ra bằng ho hay các phương pháp khác. Phương cách này không nên dùng trong giãn phế nang đơn thuần. Điều trị bằng thuốc tiêu đờm - long đờm nói chung được coi là không có ích đối với bệnh nhân viêm phế quản mạn tính. Một nghiên cứu đã nêu có lẽ cũng có lợi ích giải quyết triệu chứng khi dùng glycerol có i ốt (60mg uống 4 Ìần/ngày). Điều trị kéo dài bằng glycerol có i ốt thì nên tránh vì nguy cơ có thể gây thiểu năng tuyến giáp do iodua hay tăng năng tuyến giáp. Không nên dùng thường ngày các thuốc giảm ho và an thần.

Các chương trình tập luyện thể lực thể hình có mức độ (ví dụ đi bộ 20 phút 3 lần một tuần hay đi xe đạp) giúp chống suy giảm thể lực, tăng khả năng làm việc hàng ngày. Thở mím môi để làm chậm tỷ số thở và các tập luyện thở bụng để giảm sự mệt nhọc của các cơ hô hấp phụ có thể giảm bớt khó thở ở một số bệnh nhân. Tập luyên các cơ hít vào bằng cách hít vào chống lại tăng dần các trở lực làm cho dung nạp được tốt hơn với tập luyện ở một số nhưng không phải tất cả các bệnh nhân.

Khó thở nặng dù đã cho thuốc tối ưu có thể tốt khi cho một thuốc có chứa thuốc phiện (ví dụ hydrocodon 5mg uống 4 lần/ngày). Tác dụng phụ thường xảy ra là táo bón. Các thuốc an thần gây ngủ (ví dụ diazepam 5mg 3 lần/ngày) còn đang tranh luận khi dùng cho khó thở loại khó giải quyết nhưng có thể có ích với các bệnh nhân hay lo lắng. Thông khí áp lưu âm gián đoạn (phổi thép) và thông khí áp lực dương qua đường mũi ở nhà cho cơ hô hấp được nghỉ là những phương cách mới làm cho chức năng cơ hô hấp được cải thiện và giảm bớt khó thở ở bệnh nhân COPD nặng. Thở áp lực dương gián đoạn (IPPB) một cách thông thường cho bệnh nhân COPD ngoại trú ổn định không lợi ích gì và rất tốn kém.

Điều trị oxy tại nhà được chỉ định cho bệnh nhân COPD có chọn lựa hay cho các bệnh phổi nặng khác có thiếu oxy rõ. Yêu cầu của tổ chức tài trợ y tế với bệnh nhân dùng oxy và thiết bị oxy ở nhà được nêu trong bảng. Định lượng máu động mạch nên lấy ở tai hay đo oxy ở đầu ngón tay để hướng cho việc điều trị oxy lúc ban đầu. Oxy có thể dùng liên tục chỉ vào ban đêm hay khi tập luyện. Các rối loạn tim mạch như cơn đau thắt ngực, bệnh mạch ngoại biên và các bệnh giai đoạn cuối mà không thiếu oxy thì không có chỉ định tốn phí này. Các bệnh nhân thiếu oxy có tăng áp lực động mạch phổi, tâm phế mạn, bệnh tăng hồng cầu thứ phát, suy giảm tri giác, không dung nạp với luyện tập, trằn trọc về đêm, đau đầu buổi sáng đặc biệt tốt khi trị liệu oxy tại nhà. Lợi ích của trị liệu oxy tại nhà cho các bệnh nhân COPD tiến triển được chứng tỏ là những bệnh nhân này có thời gian sống lâu hơn, giảm việc phải nằm viện, chất lượng cuộc sống tốt hơn. Thời gian sống lâu hơn ở bệnh nhân COPD thiếu oxy được điều trị bằng trị liệu oxy bổ sung tỷ lệ trực tiếp với số giờ trong ngày được dùng oxy. Ở những bệnh nhân này được điều trị oxy liên tục, thời gian sống lâu hơn 36 tháng là khoảng 65% tốt hơn rõ ràng so với tỷ lệ khoảng 45% ở bệnh nhân chỉ được cho oxy ban đêm.

Oxy dùng tại nhà có thể được cung cấp bởi hệ thống oxy lỏng (liquid oxygen System - LOX), trụ khí nén hay các máy cô đặc oxy. Hầu hết bệnh nhân có được lợi ích nếu có cả hai hệ thống oxy tại chỗ và oxy mang theo được. Oxy cho đường mũi phải cho ít nhất 15 giờ một ngày trừ phi điều trị chỉ có ý cho khi tập luyện hay khi ngủ. Đối vớì hầu hết bệnh nhân cho 1 - 3 lít/phút là có được PaO2 trên 55mgHg. Dùng oxy tại nhà hàng tháng phí tổn 300 - 500 USD hay hơn, nếu dùng hệ thống oxy lỏng thì đắt hơn. Giúp đỡ về y tế hỗ trợ chừng 80% phí tổn dùng oxy tại nhà. Oxy xuyên khí quản là một phương cách khác cho oxy.

Bảng. Liệu pháp oxy tại nhà: Những yêu cầu để được chăm sóc y tế

Nhóm 1 (bất ky ai như dưới đây)

1. PaO2 < 55mmHg hay SaO2 < 88% đo khi nghỉ, thở không khí buồng, khi thức.

2. Trong khi ngủ (chỉ cho dùng oxy ban đêm)

- PaO2 <55mmHg hay SaO2 <88% khi thức, nghỉ ngơi, không khí trong buồng > 56 mmHg hay SaO2 > 89% hay

- Giảm PaO2 > 10 mmHg hay giảm SaO2 > 5% kèm theo cs các triệu chứng hay dấu hiệu của thiếu oxy (ví dụ nhận thức giảm, thao thức về đêm, mất ngủ).

3. Trong khi tập luyện (chỉ cho dùng oxy trong khi tập luyện)

- PaO2 ≤ 55mmHg hay SaO2 ≤ 88% do khi tập luyện cho bệnh nhân thức, nghỉ ngơi, không khí buồng PaO2 ≥ 56 mmHg hay SaO2 ≥ 89% và

- Cho oxy bổ sung trong khl tập luyện lạị tăng thêm sự thiếu oxy lúc tập luyện này đang thở không khí trong buồng.

Nhóm 2 **

PaO2 = 56 - 59mmHg hay SaO2 = 89% nếu có bất kỳ dấu hiệu nào dưới đây:

- Có phù dược coi là do suy tim xung huyết.

- Có sóng P phế trên điện tim (sóng P > 3mm trong các chuyển đạo chuẩn II, III hay aVF).

- Hematocrit > 56%.

* Tổ chức tài trợ y tế 1989

** Các bệnh nhân trong nhóm này phải có test ô xy thứ 2 làm vào 3 tháng sau khi cho ô xy lần đầu tiên.

Các chất ức chế alphal - proteinase của người có thể dùng để điều trị thay thế trong giãn phế nang do thiếu hụt alpha 1 - antiproteinase bẩm sinh. Bệnh nhân trên 18 tuổi có chức năng phổi tắc nghẽn và mức alpha 1 - antiproteinase ít hơn 11 µmol/l có chỉ định loại điều trị nói trên. Chất ức chế alphal - proteinase của người dùng đường tĩnh mạch với liều 60mg/kg thể trọng một lần trong một tuần và bệnh nhân được điều trị như thế này phải đăng ký với Viện y học quốc gia. Hiệu qủa của chất này còn chưa biết nhưng rất đắt.

Ghép phổi có thể được làm cho người COPD giai đoạn cuối. Kinh nghiệm với ghép một bên hay cả hai bên phổi cho người COPD nặng ngày một nhiều. Chỉ định ghép phổi là bệnh phổi nặng, hoạt động hàng ngày bị giới hạn, điều trị nội khoa không còn hiệu qủa, tình trạng lưu động, có khả năng phục hồi chức năng phổi, cuộc sống bị giới hạn nếu không ghép phổi, các hệ thống cơ quan khác chức phận đảm bảo và có nguồn trợ giúp xã hội tốt. Sau khi ghép phổi chức năng phổi và các hoạt động được cải thiện thật sự. Tỷ lệ sống 2 năm sau khi ghép phổi trong COPD là 75%.

Bệnh nhân nằm viện

Nằm viện được chỉ định cho các bệnh nhân COPD có đợt cấp mà các biện pháp dùng cho bệnh nhân ngoại trú đã được sử dụng nhưng thất bại. Bệnh nhân có suy hô hấp cấp hay các biến chứng như tâm phế hay tràn khí màng phổi cũng phải vào viện.

Xử lý bệnh nhân vào viện do đợt vượng bệnh COPD cấp cũng như bệnh nhân vào viện do hen. Điều trị gồm cho oxy hỗ trợ, ipratropinum bromid, thuốc tác dụng giống thần kinh giao cảm thở hít, kháng sinh phổ rộng, corticosteroid và trong những trường hợp chọn lựa, vật lý trị liệu lồng ngực. Aminophyllin tĩnh mạch không có lợi ích gì thêm trong điều trị bằng thuốc giãn phế quản thở hít ở bệnh nhân COPD có đợt vượng bệnh cấp. Oxy liệu pháp không nên không cho do sợ toan hoá hô hấp nặng thêm, thiếu oxy bất lợi hơn là ưu thán. Tập phế thường đáp ứng với các biện pháp làm giảm áp lực động mạch phổi như cho oxy bổ sung và sửa chữa tinh trạng toan hóa; nghỉ tại giưòng, hạn chế muối, lợi tiểu làm tình trạng bệnh nhân khá hơn. Loạn nhịp tim thường đáp ứng với bản thân việc điều trị COPD. Verapamil (240 - 480 mg/ngày chia liều ra mỗi 8 giờ hay 0,075 - 0,15 mg/kg, tiêm tĩnh mạch 1 - 2mg/phút) đôi khi có hiệu qủa trong nhịp nhanh nhĩ đa ổ. Nếu suy hô hấp tiến triển xảy ra sau đó, cần phải đặt ống nội khí quản và thông khí cơ học. Hô hấp hỗ trợ áp lực dương thì hít vào với mặt nạ úp mặt gần đây được nêu như một phương sách không gây tổn thương thay cho thông khí cơ học quy ước.

Tiên lượng

Triển vọng của bệnh nhân COPD có biểu hiện lâm sàng rõ rệt là khòng tốt.

Thời gian sống trung bình của bệnh nhân COPD nặng (FEV1 < 1 lít) khoảng 4 năm. Độ rối lòạn chức năng phổi (đo bằng FEV1) ở thời điểm đầu tiên khám bệnh nhân có lẽ quan trọng nhất để tiên lượng thời gian sống. Các chương trình giáo dục kiến thức và các thuốc giảm rõ ràng mức độ suy giảm chức năng phổi nhưng điều trị thuốc giãn phế quản và các biện pháp khác có lẽ không có nhiều tác động tới tiến trình tự nhiên của COPD. Thời gian còn sống sót rất thay đổi không dễ tiên lượng. Tiên lượng tốt hơn ở COPD dạng hen mạn tính (viêm phế quản thể hen mạn tính) so với dạng giãn phế nang.

Bài viết cùng chuyên mục

Tràn khí màng phổi tự phát

Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.

Tràn dịch màng phổi

Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.

Viêm màng phổi

Khi có tràn dịch màng phổi, dày màng phổi hoặc có khí trong khoang màng phổi phải có chẩn đoán và điều trị khác. Cũng cần nhắc lại rằng gẫy xương sườn có thể gây tràn dịch màng phổi nặng.

Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.

Suy hô hấp cấp

Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.

Hội chứng tăng thông khí

Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.

Các rối loạn thở liên quan đến ngủ

Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.

Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick

Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.

Giảm thông khí phế nang tiên phát

Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.

Tổn thương phổi do tia xạ

Xơ phổi do tia xạ xảy ra gần như trong tất cả bệnh nhân được nhận một tiến trình đầy đủ về điều trị bằng tia xạ trong ung thư phổi hoặc lồng ngực.

Bệnh phổi do thuốc

Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.

Các bệnh phổi nghề nghiệp

Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.

Các hội chứng hít sặc ở phổi

Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.

Hít phải khói

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.

Thở không khí ô nhiễm

Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó.

Tăng áp lực động mạch phổi

Tăng áp lực động mạch phổi thứ phát thì khó nhận biết về mặt lâm sàng trong các giai đoạn sớm, khi các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh gây ra nó còn sơ khởi.

Bệnh huyết khối tắc mạch phổi

Các phát hiện lâm sàng trong huyết khối tác nghẽn mạch phổi phụ thuộc vào kích thước cục tắc và trạng thái tim phổi trước đó. Trong nghẽn mạch phổi lớn, thất phải bị suy, huyết áp hệ thống hạ.

Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan

Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao

Nhiễm protein phế nang phổi

Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.

Các hội chứng chảy máu phế nang

Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.

Viêm mạch phổi và bệnh u hạt

Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.

Bệnh Sarcoid: chẩn đoán và điều trị

Những vị trí có thể làm sinh thiết được như các hạch bạch huyết sờ thấy được, các tổn thương ở da hay ở tuyến nước bọt chỉ định cho làm sinh thiết sẽ giúp thêm bằng chứng cho chẩn đoán.

Viêm phế nang xơ nguồn gốc ẩn

Điều trị gồm các biện pháp hỗ trợ, thở thêm oxy và corticosteroid. Corticosteroid thường chỉ định cho các bệnh nhân có các triệu chứng tăng dần hay chức năng phổi suy giảm.

Các bệnh phổi kẽ

Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.

Các khối u trung thất

CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.

Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi

Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.

Các khối u lành tính của phổi

Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.

Ung thư trung biểu mô màng phổi

Tuổi trung bình khởi phát các triệu chứng ung thư trung biểu mô màng phổi ác tính khoảng 60 tuổi: Thời gian tiềm tàng từ khi tiếp xúc đến khi có các triệu chứng từ 20 đến 40 năm.

Ung thư phổi thứ phát

Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.

Nốt phổi đơn độc

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.

Bệnh do mycobacteria không phải lao

Các chế độ hóa trị liệu truyền thống dùng 5 hay 6 loại thuốc nhưng có những tác dụng phụ do thuốc và không có sự cộng tác của bệnh nhân.

Lao phổi: chẩn đoán và điều trị

Các chủng trực khuẩn lao kháng với một hay nhiều thuốc chống lao chủ yếu gặp thấy với tần số tăng đến mức báo động, đặc biệt ở cư dân các đô thị.

Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch

Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.

Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi

Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.

Viêm phổi mắc phải ở cộng đồng

Làm sạch các thâm nhiễm phổi ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải ở cộng đồng phải mất 6 tuần hay lâu hơn: ở người trẻ thời gian này nhanh hơn hoặc đó là người không hút thuốc hay chỉ tổn thương một thùy.

Viêm phổi

Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi.

Viêm khí phế quản cấp

Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.

Viêm tắc tiểu phế quản

Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.

Giãn phế quản

Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.

Bệnh nấm aspergillus phổi phế quản dị ứng

Tiêu chuẩn chẩn đoán thứ đến là phân lập được aspergillus trong đờm, tiền sử có đờm lốm đốm máu, phản ứng bì muộn với kháng nguyên aspergillus.

Tắc đường hô hấp

Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.

Bệnh xơ nang phổi

Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.

Hen phế quản

Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.

Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản

Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi

Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.

Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản

Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.