- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp
- Bệnh đau nhiều cơ do thấp và viêm động mạch tế bào khổng lồ
Bệnh đau nhiều cơ do thấp và viêm động mạch tế bào khổng lồ
Khi có đau đầu và những triệu chứng khác gợi ý viêm động mạch sọ não, cần bắt đầu dùng ngay prednison 60 mg một ngày để đề phòng mù mắt, sinh thiết động mạch thái dương cũng nên được tiến hành ngay.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các hội chứng viêm mạch máu là một nhóm gồm nhiều bệnh lý khác nhau, đặc trưng về mặt giải phẫu bệnh bởi tổn thương viêm và hoại tử của các mạch máu. Nguyên nhân của hầu hết các loại viêm mạch máu đều chưa rõ. Nhiễm khuẩn là một yếu tố quan trọng trong bệnh sinh của một số loại. Trong bệnh viêm đa động mạch, 30 - 50% bệnh nhan có các bằng chứng của viêm gan B hoặc C. Hầu hết bệnh nhân mắc bệnh cryoglobulin huyết hỗn hợp bị nhiễm virus viêm gan C. Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn và bệnh giang mai có thể phối hợp với viêm mạch máu và một số ít trường hợp sau nhiễm herpes zoster có thể có viêm mạch máu ở thần kinh trung ương. Phản ứng thuốc, đặc biệt với penicillin, sulfonamid và allopurinol có thể gây ra bệnh lý huyết, thanh có kèm theo viêm mạch máu. Người ta vẫn chưa xác định được mối liên quan về mật bệnh lý trong những rối loạn này, tuy nhiên có thể thấy hiện tượng lắng đọng các phức hợp miễn dịch trong hệ thống máu.
Mặc dù viêm mạch máu xuất hiện trong nhiều bệnh khác nhau, song đây chỉ trình bày một số bệnh lý chủ yếu.
Bệnh đau nhiều cơ do thấp, một bệnh ảnh hưỏng tới lứa tuổi trung niên và những người già, hiếm khi xuất hiện trước tuổi 50. Bệnh thường xuất hiện đột ngột với biểu hiện đau và cứng các cơ vùng chậu hông và vai, kèm theo sốt, mệt mỏi và sút cân. Thiếu máu và máu lắng tăng cao hầu như luôn luôn có mặt. Nhìn chung bệnh kéo dài trong 1 - 2 năm, nhưng có thể lâu hơn.
Bệnh đau nhiều cơ do thấp có một mối liên hệ chặt chẽ với viêm động mạch tế bào khổng lồ, hai tình trạng này thường cùng tồn tại, tuy nhiên có thể xuất hiện độc lập với nhau; khi cả hai bệnh cùng xuất hiện, các biểu hiện lâm sàng của đau do thấp luôn luôn có trước các biểu hiện của viêm động mạch tế bào khổng lồ. Việc chẩn đoán viêm động mạch rất quan trọng vì nó có thể dẫn tới nguy cơ gây mù do tắc động mạch mi sau và động mạch mắt. Các triệu chứng gợi ý viêm động mạch gồm đau đầu một bên, nhậy cảm với ánh sáng, các triệu chứng thị giác và dấu hiệu khập khiễng hàm (jaw claudication). Tuy nhiên viêm động mạch có thể xuất hiện mà không có triệu chứng tại chỗ. Trên thực tế, có 40% bệnh nhân không có các dấu hiệu cổ điển, chủ yếu những biểu hiện ở đường hô hấp (thường gặp nhất là ho khan), viêm một dây thần kinh (thường là liệt vai kèm theo đau) hoặc sốt không rõ nguyên nhân. Viêm động mạch tế bào khổng lồ chiếm tới 15% trường hợp sốt không rõ nguyên nhân ở những người trên 65 tuổi. Có thể sốt cao tới 40°C (104°F) và thường kèm theo rét run và vã mồ hôi. Khác với bệnh nhân bị nhiễm trùng, bệnh nhân viêm động mạch tế bào khổng lồ có sốt gần như luôn có số lượng bạch cầu máu bình thường (trước khi dùng prednison). Do vậy, khi một bệnh nhân già có sốt cao không rõ nguyên nhân, tốc độ máu lắng rất cao, và công thức bạch cầu bình thường cần phải nghi ngờ viêm động mạch tế bào khổng lồ, ngay cả khi không có các biểu hiện đặc trưng của bệnh như đau đầu và dấu hiệu khập khiễng hàm.
Khi có đau đầu và những triệu chứng khác gợi ý viêm động mạch sọ não, cần bắt đầu dùng ngay prednison 60 mg/ngày để đề phòng mù mắt, sinh thiết động mạch thái dương cũng nên được tiến hành ngay. Sự biến mất nhanh của những thay đổi tế bào học ở động mạch thái dương còn chưa rõ ràng, nhưng sinh thiết trong vòng 1 - 2 tuần đầu sau khi bắt đầu điều trị vẫn có giá trị, Một mẫu sinh thiết đầy đủ (dài 3 - 5 cm) là cần thiết bởi vì bệnh có xu hướng tổn thương từng đoạn; sinh thiết cả hai bên làm tăng khả năng chẩn đoán lên 10 - 20%. Có 10 - 15% bệnh nhân có viêm mạch máu lớn khác. Prednison nên tiếp tục với liều 60 mg/ngày trong 1 - 2 tháng, sau đó giảm dần liều. Khi bệnh nhân chỉ có các triệu chứng đau nhiều cơ do thấp, không cần thiết phải sinh thiết động mạch thái dương. Hơn nữa đau nhiều cơ do thấp nếu không có viêm động mạch, thường đáp ứng rất nhanh (từ 1 - 5 ngày) và rất nhậy cảm với liều prednison thấp hơn (10 - 15 mg/ngày). Nếu bệnh nhân không có đáp ứng như vậy, chẩn đoán đau nhiều cơ do thấp cần phải nghi ngờ. Xét nghiệm lắng máu có ích giúp cho việc điều chỉnh liều lượng steroid, tuy nhiên xét nghiệm này không tuyệt đối phản ánh mức độ hoạt động của bệnh. Mù mắt hiếm khi xuất hiện khi máu lắng đã trở về bình thường. Thuốc có thể ngừng khi bệnh ngừng tiến triển, mặc dù bệnh có thể tái phát và ở một số bệnh nhân bệnh còn tiến triến trong nhiều năm. Trước khi bắt đầu điều trị corticosteroid cần phải luôn loại trừ những bệnh nhiễm khuẩn mạn tính như viêm nội tâm mạc nhiểm khuẩn, có các triệu chứng tương tự bệnh đau nhiếu cơ do thấp. Đau xương tủy và những bệnh ác tính khác nên luôn luôn được xem là những nguyên nhân gây thiếu máu và tốc độ lắng máu tăng rất cao.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh co thắt Dupuytren
Co thắt Dupuytren có biểu hiện bằng sự dầy lên của bao cân gan tay dạng nốt hoặc giống như dây thừng ờ một hoặc hai bàn tay và thường ảnh hưởng tới các ngón thứ tư và thứ năm.
Hoại tử xương vô khuẩn
Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.
Viêm bao thanh dịch
Viêm bao thanh dịch có thể do nhiễm khuẩn. Hai vị trí thường bị là mỏm khủyu và trước xương bánh chè. Viêm bao thanh dịch cấp ở hai vị trí này cần chọc dò để loại trừ nguyên nhân nhiễm khuẩn.
Bệnh hỗn hợp của mô liên kết
Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.
Bệnh gút
Gút là một bệnh rối loạn chuyển hóa, thường có tính chất gia đình, do sự thay đổi bất thường lượng urat trong cơ thể và đặc trưng đầu tiên của bệnh là những cơn viêm khớp cấp tái phát
Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh: bệnh charcot
Khi trương lực cơ bình thường và những phản xạ bảo vệ bị mất, bệnh khớp thoái hóa thứ phát đã xuất hiện, làm cho khớp trở nên yếu, to ra.
Bệnh thiểu sản xương: bệnh giòn xương
Dạng thứ hai là thiểu sản xương muộn, trong đó gẫy xương và biến dạng xương xuất hiện sau khi đẻ. Xương dòn, dễ gãy là một tiêu chuẩn rõ ràng nhất cho chẩn đoán.
Bệnh viêm mô sợi
Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.
Viêm gân lắng đọng Calci vùng vai cánh tay
Viêm gán lắng đọng calci cần phải phân biệt với những hội chứng đau cổ cánh tay khác, viêm khớp mủ, thoái khớp, gút, các khối u đỉnh phổi Pancoast và đứt bao xoay.
Viêm nhiều sụn tái phát
Bệnh thường tiến triển từng đợt, tỷ lệ nam nữ bị bệnh ngang nhau. Sụn sưng, đau trong đợt cấp và hậu quả là trở nên teo nhỏ, gây biến dạng vĩnh viễn. Sinh thiết sụn tổn thương thấy viêm và tiêu sụn.
Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực
Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực cần phải phân biệt với những triệu chứng của thoái hòá cột sống cổ, các khối u của tủy cổ hoặc của các rễ thần kinh, viêm quanh khớp vai và những hội chứng cổ cánh tay khác.
Viêm khớp trong bệnh sarcoid
Tuy viêm khớp sarcoid thường kèm theo ban đỏ dạng nốt, song chẩn đoán lại dựa vào sự có mặt của những biểu hiện ngoài khớp khác của bệnh sarcoid.
Đánh giá và chẩn đoán bệnh cơ xương khớp
Làm các thăm dò xét nghiệm để hoàn thiện việc đánh giá. Những xét nghiệm thông thường gồm tốc độ lắng máu, phản ứng tìm yếu tố dạng thấp, kháng thể kháng nhân
Xơ cứng bì toàn thể
Xơ cứng bì toàn thể là một bệnh mạn tính đặc trưng bởi xơ cứng lan toả của da và tổn thương các nội tạng, Nguyên nhân của bệnh chưa rõ, song có vai trò của yếu tố tự miễn dịch.
Luput ban đỏ hệ thống
Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.
Viêm khớp vảy nến
Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.
Biểu hiện thấp khớp trong ung thư
Bệnh bạch cầu tế bào tóc có thể phối hợp với viêm các mạch máu cỡ trung bình, như bệnh viêm nút đa động mạch, Bệnh bạch cầu cấp có thể gây đau khớp.
Bệnh viêm cột sống dính khớp
Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng có xu hướng lan dần lên phía đầu, vận động cột sống trở nên hạn chế, mất đường cong sinh lý bình thường của cột sống thắt lưng.
Những chấn thương do chạy nhảy
Những hậu quả không tốt này có thể ngăn chặn bằng những biện pháp đề phòng như áp dụng những bài tập kéo duỗi, đi giầy hợp lí, tránh chạy quá sức và lưu ý kịp thời những sang chấn
Viêm khớp mãn tính thiếu niên
Các bất thường về sự phát triển của có thể và sự phát triển của bộ xương liên qiian đến sự tiến triển cấp tính của bệnh, có thể chỉ là tạm thời và thường hồi phục.
Hội chứng Behort
Triệu chứng lâm sàng gồm liệt dây thần kinh sọ, co giật, viêm não, rối loạn tâm thần và tổn thương tủy sống. Thường có tăng bạch cầu và tăng tốc độ lắng máu.
Các khối u và những tổn thương giống khối u của xương
Các khối u tiên phát của xương tương đối hiếm gặp so với các khối u thứ phát hoặc di căn, Tuy nhiên chúng có ý nghĩa lớn trên lâm sàng bởi vì có nhiều khả năng ung thư.
Viêm khớp và các bệnh viêm ruột
Trên thực tế, viêm khớp ổn định thì ỉa chảy xuất hiện. Do vậy, bệnh Whiple nên được xem xét trong chẩn đoán phân biệt những trường hợp viêm khớp từng đợt không lý giải được.
Viêm quanh khớp vai
Khởi phát của đau, tăng lên khi vận động khớp vai quá mức, có thể cấp tính hoặc từ từ. Đau có thể khó chịu nhất vào ban đêm và tăng lên khi nằm ngủ đè lên tay bị bệnh ở tư thế nằm nghiêng.
Nhiễm khuẩn xương và khớp do nấm
Phân biệt với những ổ nhiễm khuẩn mạn tính khác dựa vào kết quả nuôi cấy dịch khớp hoặc tổ chức lấy từ ổ tổn thương. Các phản ứng huyết thanh cung cấp những bằng chứng có ích cho chẩn đoán.