Bệnh viêm mô sợi

2016-12-19 02:35 PM

Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Hội chứng đau cơ gân mạn tính nhiều nơi kèm theo nhiều điểm ấn đau.

Mệt mỏi, đau đầu, tê bì thường gặp.

Hay gặp ở phụ nữ tuổi 25 - 50.

Không có các dấu hiệu khách quan của viêm; xét nghiệm bình thường.

Đáp ứng một phần với tập luyện và dùng amitriptylin.

Nhận định chung

Viêm mô sợi (còn gọi là đau mô cơ sợi), là một trong những hội chứng thấp thường gặp nhất trong y học nói chung. Nó có chung nhiều biểu hiện của hội chứng mệt mỏi mạn tính, hay gặp ở phụ nữ tuổi 25 - 50, không có dấu hiệu khách quan, và không có những xét nghiệm có ý nghĩa chẩn đoán. Trong khi nhiều triệu chứng lâm sàng của hai tình trạng này trùng lặp nhau, thì đau có nổi bật trong bệnh viêm mô sợi, trong khi mệt nhọc lại là dấu hiệu chủ yếu của hội chứng mệt mỏi mạn tính.

Nguyên nhân chưa rõ, có thể do rối loạn giấc ngủ, trầm cảm, nhiễm virus. Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.

Lâm sàng

Bệnh nhân thường là nữ, tuổi trước mãn kinh và đau nhức kéo dài và cứng khớp, thường là toàn thân, nhưng nổi bật là đau ở cổ, vai, thắt lưng và vùng hông. Mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, tê bì một cách chủ quan, đau đầu mạn tính và những triệu chứng kích thích đại tràng là những triệu chứng thường gặp. Bệnh nhân cảm thấy không thể làm được những công việc bình thường, thậm chí chỉ cần những gắng sức nhẹ cũng thấy đau và mệt mỏi tăng lên. Thỉnh thoảng có bệnh nhân thấy xuất hiện các triệu chứng như một bệnh lý cấp tính hoặc một kiểu bệnh như nhiễm virus. Thăm khám thực thể thường là bình thường, ngoài việc phát hiện ra những điểm đau khi sờ nắn một số vùng khác nhau như ở cơ thang, đám mỡ phía trong gối, và lồi cầu ngoài khủyu tay.

Chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán bệnh viêm mô sợi là một chẩn đoán loại trừ. Hỏi bệnh và khám thực tế kĩ lưỡng để khỏi phải làm thêm xét nghiệm. Viêm khớp dạng thấp và luput ban đỏ hệ thống gần như luôn luôn có các dấu hiệu thực thể khách quan hoặc nhưng thay đổi về xét nghiệm, trong đó có tốc độ lắng máu. Xét nghiệm chức năng tuyến giáp là cần thiết vì thiểu năng giáp trạng có thể gây ra hội chứng đau mô sợi thứ phát. Viêm đa cơ gây yếu cơ hơn là đau cơ. Chẩn đoán viêm mô sợi cơ có thể không đặt ra ở những bệnh nhân trên 50 tuổi và đừng bao giờ chấp nhận chẩn đoán này để giải thích tình trạng sốt, sút cân, hoặc bất kì một dấu hiệu khách quan nào khác. Bệnh đau nhiều cơ do thấp gây đau vùng vai, kèm theo thiếu máu, tăng tốc độ lắng máu và xuất hiện sau tuổi 50.

Điều trị

Giáo dục bệnh nhân là điều rất quan trọng. Bệnh nhân có thể cảm thấy dễ chịu hơn khi biết rằng bệnh của họ có thể chẩn đoán được và có thể điều trị được bằng những phương pháp đặc hiệu, tuy không hoàn hảo, và quá trình bệnh sẽ không tiến triển thêm. Những nghiên cứu có đối chứng với placebo đã chứng minh hiệu quả điều trị khá của amitriptylin, chlopromazin hoặc cyclobenzaprin. Amitriptylin bắt đầu được cho với liều 10 mg vào lúc đi ngủ, và tăng dần tới 40 -50 mg, tùy theo tác dụng và độc tính của nó. Những phương pháp tập luyện cũng rất có ích. Các thuốc chống viếin không steroid nhìn chung là không có tác dụng. Opiat và corticosteroiđ không hiệu quả và đừng bao giờ sử dụng để điều trị bênh viêm mô sợi.

Tiên lượng

Hầu hết bệnh nhân có các triệu chứng mạn tính. Tuy nhiên, nhờ điều trị mà cuối cùng nhiều người có thể tăng hoạt động. Các dấu hiệu tiến triển và nhận định chủ quan không tiến triển.

Bài viết cùng chuyên mục

Loạn dưỡng giao cảm phản xạ

Tiên lượng phụ thuộc một phần vào giai đoạn bệnh, những tổn thương đã xuất hiện và phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh lý nội tạng phôi hợp. Điều trị sớm, khả năng hồi phục sẽ tôt hơn.

Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp không do lậu

Việc sử dụng nội soi ngày càng rộng rãi và những phẫu thuật thay khớp nhân tạo đã làm cho tỉ lệ viêm khớp nhiễm khuẩn tăng lên.

Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực

Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực cần phải phân biệt với những triệu chứng của thoái hòá cột sống cổ, các khối u của tủy cổ hoặc của các rễ thần kinh, viêm quanh khớp vai và những hội chứng cổ cánh tay khác.

Luput ban đỏ hệ thống

Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.

Viêm gân lắng đọng Calci vùng vai cánh tay

Viêm gán lắng đọng calci cần phải phân biệt với những hội chứng đau cổ cánh tay khác, viêm khớp mủ, thoái khớp, gút, các khối u đỉnh phổi Pancoast và đứt bao xoay.

Những nguyên tắc cơ bản trong điều trị bệnh khớp mạn tính

Mức độ nghỉ ngơi phụ thuộc vào sự có mặt và mức độ viêm. Những bệnh nhân đang có viêm khớp và những triệu chứng toàn thân nặng như trong bệnh viêm khớp dạng thấp

Những chấn thương do chạy nhảy

Những hậu quả không tốt này có thể ngăn chặn bằng những biện pháp đề phòng như áp dụng những bài tập kéo duỗi, đi giầy hợp lí, tránh chạy quá sức và lưu ý kịp thời những sang chấn

Bệnh thoái khớp (hư khớp)

Bệnh được đặc trựng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ. Những yếu tố di truyền và cơ học ít nhiều có liên quan đến có chế bệnh sinh của bệnh.

Nhiễm khuẩn xương và khớp do nấm

Phân biệt với những ổ nhiễm khuẩn mạn tính khác dựa vào kết quả nuôi cấy dịch khớp hoặc tổ chức lấy từ ổ tổn thương. Các phản ứng huyết thanh cung cấp những bằng chứng có ích cho chẩn đoán.

Bệnh gút

Gút là một bệnh rối loạn chuyển hóa, thường có tính chất gia đình, do sự thay đổi bất thường lượng urat trong cơ thể và đặc trưng đầu tiên của bệnh là những cơn viêm khớp cấp tái phát

Viêm quanh khớp vai

Khởi phát của đau, tăng lên khi vận động khớp vai quá mức, có thể cấp tính hoặc từ từ. Đau có thể khó chịu nhất vào ban đêm và tăng lên khi nằm ngủ đè lên tay bị bệnh ở tư thế nằm nghiêng.

Bệnh hỗn hợp của mô liên kết

Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.

Những biểu hiện khớp trong nhiễm HIV

Viêm gân Achille hoặc viêm quanh khớp gối, như trong hội chứng Reiter cổ điển, là những dấu hiệu thường nổi bật và rất đặc trưng.

Viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân có viêm mạn tính màng hoạt dịch của nhiều khâp, mà nguyên nhân chưa rõ, Bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú.

Bệnh u hạt Wegener

Mặc dù có thể có dạng u hạt Wegener giới hạn mà trong đó không có tổn thương thận, song thông thường sẽ xuất hiện bệnh thận tiến triển nặng và gây suy thận nhanh chóng.

Bệnh calci hóa sụn và giả gút

Không giống bệnh gút, bệnh nhân bị bệnh giả gút thường có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường, và kém đáp ứng với điều trị bằng colchicin

Thấp khớp hay tái phát

Thấp khớp hay tái phát là một bệnh không rõ nguyên nhân đặc trưng bởi những đợt viêm cấp không tái phát, Sưng đau khớp ngoại vi và nổi hạt dưới da tạm thời có thể xuất hiện.

Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh: bệnh charcot

Khi trương lực cơ bình thường và những phản xạ bảo vệ bị mất, bệnh khớp thoái hóa thứ phát đã xuất hiện, làm cho khớp trở nên yếu, to ra.

Đau thắt lưng

Thăm khám thực thể cũng rất quan trọng, bởi vì những triệu chứng như sốt, tăng huyết áp, hạch to, có khối u ở bụng, ở khung chậu hay ở trực tràng

Bệnh đau nhiều cơ do thấp và viêm động mạch tế bào khổng lồ

Khi có đau đầu và những triệu chứng khác gợi ý viêm động mạch sọ não, cần bắt đầu dùng ngay prednison 60 mg một ngày để đề phòng mù mắt, sinh thiết động mạch thái dương cũng nên được tiến hành ngay.

Viêm khớp do lậu

Trong hầu hết các trường hợp, nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp do lậu nên nhập viện để khẳng định chẩn đoán, để loại trừ viêm nội tâm mạc và bắt đầu điều trị.

Viêm khớp vảy nến

Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.

Viêm khớp mãn tính thiếu niên

Các bất thường về sự phát triển của có thể và sự phát triển của bộ xương liên qiian đến sự tiến triển cấp tính của bệnh, có thể chỉ là tạm thời và thường hồi phục.

Biểu hiện thấp khớp trong ung thư

Bệnh bạch cầu tế bào tóc có thể phối hợp với viêm các mạch máu cỡ trung bình, như bệnh viêm nút đa động mạch, Bệnh bạch cầu cấp có thể gây đau khớp.

Hội chứng Behort

Triệu chứng lâm sàng gồm liệt dây thần kinh sọ, co giật, viêm não, rối loạn tâm thần và tổn thương tủy sống. Thường có tăng bạch cầu và tăng tốc độ lắng máu.