- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp
- Bệnh viêm mô sợi
Bệnh viêm mô sợi
Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Hội chứng đau cơ gân mạn tính nhiều nơi kèm theo nhiều điểm ấn đau.
Mệt mỏi, đau đầu, tê bì thường gặp.
Hay gặp ở phụ nữ tuổi 25 - 50.
Không có các dấu hiệu khách quan của viêm; xét nghiệm bình thường.
Đáp ứng một phần với tập luyện và dùng amitriptylin.
Nhận định chung
Viêm mô sợi (còn gọi là đau mô cơ sợi), là một trong những hội chứng thấp thường gặp nhất trong y học nói chung. Nó có chung nhiều biểu hiện của hội chứng mệt mỏi mạn tính, hay gặp ở phụ nữ tuổi 25 - 50, không có dấu hiệu khách quan, và không có những xét nghiệm có ý nghĩa chẩn đoán. Trong khi nhiều triệu chứng lâm sàng của hai tình trạng này trùng lặp nhau, thì đau có nổi bật trong bệnh viêm mô sợi, trong khi mệt nhọc lại là dấu hiệu chủ yếu của hội chứng mệt mỏi mạn tính.
Nguyên nhân chưa rõ, có thể do rối loạn giấc ngủ, trầm cảm, nhiễm virus. Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.
Lâm sàng
Bệnh nhân thường là nữ, tuổi trước mãn kinh và đau nhức kéo dài và cứng khớp, thường là toàn thân, nhưng nổi bật là đau ở cổ, vai, thắt lưng và vùng hông. Mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, tê bì một cách chủ quan, đau đầu mạn tính và những triệu chứng kích thích đại tràng là những triệu chứng thường gặp. Bệnh nhân cảm thấy không thể làm được những công việc bình thường, thậm chí chỉ cần những gắng sức nhẹ cũng thấy đau và mệt mỏi tăng lên. Thỉnh thoảng có bệnh nhân thấy xuất hiện các triệu chứng như một bệnh lý cấp tính hoặc một kiểu bệnh như nhiễm virus. Thăm khám thực thể thường là bình thường, ngoài việc phát hiện ra những điểm đau khi sờ nắn một số vùng khác nhau như ở cơ thang, đám mỡ phía trong gối, và lồi cầu ngoài khủyu tay.
Chẩn đoán phân biệt
Chẩn đoán bệnh viêm mô sợi là một chẩn đoán loại trừ. Hỏi bệnh và khám thực tế kĩ lưỡng để khỏi phải làm thêm xét nghiệm. Viêm khớp dạng thấp và luput ban đỏ hệ thống gần như luôn luôn có các dấu hiệu thực thể khách quan hoặc nhưng thay đổi về xét nghiệm, trong đó có tốc độ lắng máu. Xét nghiệm chức năng tuyến giáp là cần thiết vì thiểu năng giáp trạng có thể gây ra hội chứng đau mô sợi thứ phát. Viêm đa cơ gây yếu cơ hơn là đau cơ. Chẩn đoán viêm mô sợi cơ có thể không đặt ra ở những bệnh nhân trên 50 tuổi và đừng bao giờ chấp nhận chẩn đoán này để giải thích tình trạng sốt, sút cân, hoặc bất kì một dấu hiệu khách quan nào khác. Bệnh đau nhiều cơ do thấp gây đau vùng vai, kèm theo thiếu máu, tăng tốc độ lắng máu và xuất hiện sau tuổi 50.
Điều trị
Giáo dục bệnh nhân là điều rất quan trọng. Bệnh nhân có thể cảm thấy dễ chịu hơn khi biết rằng bệnh của họ có thể chẩn đoán được và có thể điều trị được bằng những phương pháp đặc hiệu, tuy không hoàn hảo, và quá trình bệnh sẽ không tiến triển thêm. Những nghiên cứu có đối chứng với placebo đã chứng minh hiệu quả điều trị khá của amitriptylin, chlopromazin hoặc cyclobenzaprin. Amitriptylin bắt đầu được cho với liều 10 mg vào lúc đi ngủ, và tăng dần tới 40 -50 mg, tùy theo tác dụng và độc tính của nó. Những phương pháp tập luyện cũng rất có ích. Các thuốc chống viếin không steroid nhìn chung là không có tác dụng. Opiat và corticosteroiđ không hiệu quả và đừng bao giờ sử dụng để điều trị bênh viêm mô sợi.
Tiên lượng
Hầu hết bệnh nhân có các triệu chứng mạn tính. Tuy nhiên, nhờ điều trị mà cuối cùng nhiều người có thể tăng hoạt động. Các dấu hiệu tiến triển và nhận định chủ quan không tiến triển.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh: bệnh charcot
Khi trương lực cơ bình thường và những phản xạ bảo vệ bị mất, bệnh khớp thoái hóa thứ phát đã xuất hiện, làm cho khớp trở nên yếu, to ra.
Luput ban đỏ hệ thống
Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.
Viêm gân lắng đọng Calci vùng vai cánh tay
Viêm gán lắng đọng calci cần phải phân biệt với những hội chứng đau cổ cánh tay khác, viêm khớp mủ, thoái khớp, gút, các khối u đỉnh phổi Pancoast và đứt bao xoay.
Bệnh thoái khớp (hư khớp)
Bệnh được đặc trựng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ. Những yếu tố di truyền và cơ học ít nhiều có liên quan đến có chế bệnh sinh của bệnh.
Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực
Hội chứng chỗ ra khỏi lồng ngực cần phải phân biệt với những triệu chứng của thoái hòá cột sống cổ, các khối u của tủy cổ hoặc của các rễ thần kinh, viêm quanh khớp vai và những hội chứng cổ cánh tay khác.
Bệnh u hạt Wegener
Mặc dù có thể có dạng u hạt Wegener giới hạn mà trong đó không có tổn thương thận, song thông thường sẽ xuất hiện bệnh thận tiến triển nặng và gây suy thận nhanh chóng.
Bệnh calci hóa sụn và giả gút
Không giống bệnh gút, bệnh nhân bị bệnh giả gút thường có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường, và kém đáp ứng với điều trị bằng colchicin
Đánh giá và chẩn đoán bệnh cơ xương khớp
Làm các thăm dò xét nghiệm để hoàn thiện việc đánh giá. Những xét nghiệm thông thường gồm tốc độ lắng máu, phản ứng tìm yếu tố dạng thấp, kháng thể kháng nhân
Hội chứng Behort
Triệu chứng lâm sàng gồm liệt dây thần kinh sọ, co giật, viêm não, rối loạn tâm thần và tổn thương tủy sống. Thường có tăng bạch cầu và tăng tốc độ lắng máu.
Viêm khớp do virus
Viêm đa khớp có thể phối hợp với viêm gan B và điển hình thường xuất hiện trước khi bắt đầu có vàng da, nó cũng có thể xuất hiện trong viêm gan không vàng da.
Hoại tử xương vô khuẩn
Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.
Bệnh gút
Gút là một bệnh rối loạn chuyển hóa, thường có tính chất gia đình, do sự thay đổi bất thường lượng urat trong cơ thể và đặc trưng đầu tiên của bệnh là những cơn viêm khớp cấp tái phát
Những biểu hiện khớp trong nhiễm HIV
Viêm gân Achille hoặc viêm quanh khớp gối, như trong hội chứng Reiter cổ điển, là những dấu hiệu thường nổi bật và rất đặc trưng.
Viêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân có viêm mạn tính màng hoạt dịch của nhiều khâp, mà nguyên nhân chưa rõ, Bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú.
Hội chứng Sjogren
Viêm kết giác mạc khô do giảm tiết nước mắt, gây nên bởi sự thâm nhiễm tế bào lympho và tương bào vào các tuyến lệ. Triệu chứng gồm nóng rát, ngứa, tiết rỉ mắt và không chảy nước mắt khi khóc.
Nhiễm khuẩn xương và khớp do nấm
Phân biệt với những ổ nhiễm khuẩn mạn tính khác dựa vào kết quả nuôi cấy dịch khớp hoặc tổ chức lấy từ ổ tổn thương. Các phản ứng huyết thanh cung cấp những bằng chứng có ích cho chẩn đoán.
Viêm nhiều sụn tái phát
Bệnh thường tiến triển từng đợt, tỷ lệ nam nữ bị bệnh ngang nhau. Sụn sưng, đau trong đợt cấp và hậu quả là trở nên teo nhỏ, gây biến dạng vĩnh viễn. Sinh thiết sụn tổn thương thấy viêm và tiêu sụn.
Hội chứng đường hầm cổ tay
Hội chứng này cần phải phân biệt với các hội chứng đau cổ cánh tay khác, hội chứng chèn ép thần kinh giữa vùng cẳng hoặc cánh tay, bệnh viêm một dây thần kinh.
Đau thắt lưng
Thăm khám thực thể cũng rất quan trọng, bởi vì những triệu chứng như sốt, tăng huyết áp, hạch to, có khối u ở bụng, ở khung chậu hay ở trực tràng
Biểu hiện thấp khớp trong ung thư
Bệnh bạch cầu tế bào tóc có thể phối hợp với viêm các mạch máu cỡ trung bình, như bệnh viêm nút đa động mạch, Bệnh bạch cầu cấp có thể gây đau khớp.
Bệnh Cryoglobulin huyết
Những bất thường trong xét nghiệm chức năng gan, đau bụng, bệnh tim và bệnh phổi cũng có thể xuất hiện. Chẩn đoán dựa trên bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt và phản ứng huyết thanh dương tính với cryoglobulin.
Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp không do lậu
Việc sử dụng nội soi ngày càng rộng rãi và những phẫu thuật thay khớp nhân tạo đã làm cho tỉ lệ viêm khớp nhiễm khuẩn tăng lên.
Viêm đa cơ - viêm da cơ
Viêm đa cơ là một bệnh hệ thống mà nguyên nhân chưá rõ, biểu hiện chủ yếu của bệnh là yếu cơ, Đây là một bệnh cơ nguyên phát thường gặp nhất ở người lớn.
Cốt tủy viêm cấp do vi khuẩn sinh mủ
Trong số những bệnh nhân bị các bệnh huyết sắc tố, cốt tủy viêm do vi khuẩn thương hàn thường gặp gấp 10 lần so với những vi khuẩn sinh mủ khác.
Viêm khớp và các bệnh viêm ruột
Trên thực tế, viêm khớp ổn định thì ỉa chảy xuất hiện. Do vậy, bệnh Whiple nên được xem xét trong chẩn đoán phân biệt những trường hợp viêm khớp từng đợt không lý giải được.
