Bài giảng giác hút sản khoa

2014-11-28 08:17 PM

Trên thế giới việc đánh giá lợi ích và tác dụng của giác hút có nhiều điểm khác nhau, nên tình hình sử dụng cũng khác nhau. Ớ Bắc Mỹ giác hút ít được sử dụng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung

Giác hút sản khoa là một dụng cụ thông dụng trong sản khoa. Năm 1848 Sỉmpson đã sáng tạo ra một dụng cụ kiểu giác hút ngày nay dựa trên nguyên tắc dùng lực hút chân không tác động lên ngôi thai để kéo thai ra ngoài trong những trường hợp thai không sô được. Dụng cụ có nhiêu nhược điểm, có thể gây tai biến cho thai nhi nên không được sử dụng rộng rãi. Năm 1954 Malmstrom đã cải tiến dụng cụ cho hoàn chỉnh, từ đó được sử dụng rộng rãi hơn.

Tên gọi thông dụng theo quốc tế: vacuum extractor. Hiện nay có hai loại hay được sử dụng:

Giác hút bơm tay.

Giác hút bơm điện.

Trên thế giới việc đánh giá lợi ích và tác dụng của giác hút có nhiều điểm khác nhau, nên tình hình sử dụng cũng khác nhau. Ớ Bắc Mỹ giác hút ít được sử dụng vì người ta cho rằng tỉ lệ sang chấn trẻ sơ sinh còn rất cao. Trái lại, ở châu Âu thì lại được sử dụng phổ biến, thậm chí có khi còn quá lạm dụng. Ở Việt Nam, việc sử dụng giác hút sản khoa cũng có nơi rất phổ biến, có nơi thì lại rất hạn chế.

Tuy đánh giá về giác hút không giống nhau ở các nước, nhưng tất cả các tác giả đều công nhận rằng đây không phải là một thủ thuật vô hại. Tai biến xuất huyết nội sọ hay tổn thương não có thể xuất hiện tức thời hay nhiều ngày sau đẻ bằng giác hút. Những di chứng tâm thần, vận động có thể nhiều năm sau mói biểu hiện. Sau Malmstrom đã có hai cải tiến quan trọng nhằm đơn giản hoá việc sử dụng. Bird đã thay đổi cấu trúc của nắp và gần đây là sự thay thế bằng nắp plastic mềm.

Mô tả dụng cụ

Giác hút bơm điện hay bơm tay đều là một hệ thống hút kín bao gồm có hai phần:

Bộ phận tạo áp lực chân không

Bơm ngược chiều để hút khí ra. Bơm tay thì giống như bơm xe đạp, còn bơm điện thì dùng động cơ điện để hút không khí ra.

Bình thuỷ tinh có thể tích từ 650 - 1000ml.

Nút lọ bằng cao su có thể điều chỉnh không khí vào hay ra theo ý muốn.

Áp kế âm nối với bình thuỷ tinh qua nút cao su. Áp kế âm ghi sẵn từ 0 - 1 kg/cm2.

Vít áp lực để giữ được áp lực âm.

Bộ phận kéo

Dây cao su nối liền bình không khí với dây xích.

Các loại nắp kim loại để chụp ngôi thai vói nhiều kích cỡ khác nhau: số 4,5 và 6 với các đường kính tuơng ứng là 40, 50 và 60mm. Bề sâu của nắp là 15mm.

Dây xích dài 50 - 60cm, một đầu có gắn mảnh kim loại tròn áp chặt vào đáy nắp, một đầu gắn với tay cầm. Dây xích được luồn trong một dây cao su.

Tay cầm hình chữ thập rỗng ở trong, trong đó có luồn một cái đinh để xuyên qua một mắt của dây xích giúp cho giữ chắc khi kéo. Tay cầm được nối liền với bìn^i thuỷ tinh bởi dây cao su.

Tác dụng của giác hút

Hiện nay tác dụng duy nhất của giác hút sản khoa là kéo. Nhờ có áp suất âm năp kim loại sẽ bám chặt lây đâu thai nhi tạo ra một bướu huyết thanh trên nền xương sọ cứng do vậy có thê kéo được thai nhi ra ngoài trong những trường hợp sản phụ rặn không sô. Ta có thê tính được lực bám dính theo công thức sau đây:

F = P.π.R2

Với F là trị số của lực bám dính tính bằng kgF p là trị số áp suất chân không trong hệ thống tính bằng kg/cm2.

Π = 3,1416.

R là bán lánh của nắp giác hút tính bằng cm.

Lực bám dính này có trị số bằng với trị số của lực kéo tối đa cho phép trên lý thuyết cùng phương nhưng ngược chiều. Khi lực kéo vượt qua trị số này sẽ làm bật nắp giác hút.

Một điểm cần chú ý là khi kéo phải kéo theo phương thẳng góc với nắp giác hút. Nếu phương này bị nghiêng đi một góc alpha thì khả năng bật nắp giác hút tỉ lệ thuận với độ lớn của góc nằy.

Điều kiện

Phải hết sức tôn trọng và nắm vững điều kiện của giác hút. Đó là vấn đề then chốt của sự thành công và ít đưa đến sang chấn cho thai nhi: khung chậu và thai nhi phải tương xứng, nghĩa là thai có thể lọt và sổ được.

Cổ tử cung phải mở hết.

Mẹ còn sức rặn.

Thai còn sống.

Ngôi chỏm.

Ngôi đã lọt trung bình hoặc lọt thấp.

Ối đã vỡ.

Cơn co tử cung phải tốt.

Chỉ định và chống chỉ định

Chỉ định về phía mẹ

Mẹ rặn lâu không chuyển.

Mẹ rặn yếu cho chuyển dạ kéo dài.

Tầng sinh môn rắn làm cho thai nhi không sô được.

Mẹ mắc các bệnh nội khoa ở mức độ nhẹ: hô hấp, tim mạch, nhiễm độc thai nghén.

Chỉ định về phía thai

Suy thai, tim thai nhanh trên 160 lần/phút.

Các kiểu thế sau, ngang không quay tốt. Vì giác hút ưu điểm hơn forcefs là không làm tăng đường kính số.

Chống chỉ định

Về phía mẹ:

Mẹ bị mắc các bệnh toàn thân nặng như suy tim, tiền sản giật, sản giật, tăng huyết áp.

Doạ vỡ tử cung.

Sẹo mổ cũ ở tử cung.

Khung chậu bất thường, khung chậu hẹp eo giữa, eo dưới.

Cổ tử cung chưa mở hết.

Về phía thai:

Thai non tháng, thai suy dinh dưỡng, thai kém phát triển trong buồng tử cung.

Suy thai cấp.

Các ngôi thai bất thường.

Ngôi thai chưa lọt.

Thai dị dạng, đặc biệt là não úng thuỷ.

Bướu huyết thanh to.

Kỹ thuật giác hút

Chuẩn bị

Chuẩn bị như chuẩn bị làm forcefs.

Về phía mẹ:

Vệ sinh: thông đái, thụt tháo phân, sát khuẩn âm hộ.

Chuân bị tư tưởng cho thai phụ để cho thai phụ phối hợp rặn khi kéo thai nhi. + Hồi sức thai nhi nếu cần.

Về phía thai:

Nghe lại tim thai.

Chuẩn bị các phương tiện để hồi sức sơ sinh nếu cần thiết.

Dụng cụ:

Kiểm tra lại các bộ phận của giác hút và dụng cụ cần thiết để đón thai.

Thầy thuốc và người phụ:

Thăm khám lại toàn bộ thai phụ, kiểm tra lại ngôi thế, kiểu thế, độ lọt và các điều kiện.

Rửa tay, mặc áo đi găng, đội mũ và khẩu trang.

Kỹ thuật

Thì 1: Đặt nắp

Ngón cái và ngón trỏ tay trái banh môi lớn âm hộ, tay phải cầm nghiêng nắp lách vào âm đạo đặt trên nền xương của ngôi thai, nên đặt tránh các thóp và đường khớp, lý tưởng nhất là đặt vào xương chấm.

Chọn cỡ nắp cho thích hợp, nên đặt nắp có kích cỡ to nhất có thể được.

Thì 2: Bơm và kéo

Bơm: hút từ từ và theo dõi trên áp kế cho đến -0,2kg/cm2 sau đó kiểm tra lại xem nắp giác hút có hút vào cố tử cung hay không, tiếp tục hút cho đến khi áp suất âm đạt đến -0,7-0,8kg/cm2 trong thời gian 3-5 phút.

Kéo: kéo thẳng góc với ngôi thai, luôn luôn giữ cho nắp giác hút không bị hở, kéo đều tay và chỉ kéo bằng lực của cang tay, kéo theo trục của ống đẻ, kéo trong cơn co tử cung và kết hợp vói sức rặn của sản phụ.

Thì 3: Kéo cho đến khi ngôi thai lách qua được hai bướu đỉnh của âm hộ thì mở

từ từ vít áp lực để cho không khí vào trong bình thuỷ tinh, sau đó tháo từ từ nắp giác hút ra và đỡ đẻ như bình thường. Sau khi sổ rau cần kiếm tra lại thành âm đạo, cỗ tử cung, tầng sinh môn. Khám sơ sinh cần thăm khám kỹ vị trí đặt nắp giác hút.

Tai biến

Gồm các tai biến gàn và di chứng xa, các tai biến cho mẹ và cho con.

Tai biến cho mẹ ít hơn so với forcefs

Vỡ tử cung và rách cỗ tử cung hiếm gặp.

Rách âm đạo và tầng sinh môn.

Bí đái: có thể thấy do tổn thương vùng cổ bàng quang.

Tai biến cho con không nặng nề như trong trường hợp forcefs

Trầy da đầu và khối máu tụ dưới da đầu thường gặp. Đa số các trường hợp tự khỏi sau 3-5 ngày.

Xuất huyết dưới màng xương hiếm gặp hơn.

Xuất huyết não, màng não cũng có thể gặp và tần số gặp khác nhau tuỳ theo nghiên cứu của từng tác giả.

Tỷ lệ tai biến cho con tăng lên rõ rệt trong các trường hợp bật nắp giác hút, áp lực âm quá lón, hay thời gian thực hiện thủ thuật kéo dài.

Ưu điểm và nhược điểm của giác hút

Ưu điểm

Không cần gây mê.

Tôn trọng được sinh lý của cuộc chuyển dạ (cơn co và cơn rặn).

Thủ thuật đơn giản và nhẹ nhàng.

Có thể áp dụng được rộng rãi.

Nên tôn trọng các điều kiện và chỉ định thì rất ít tai biến.

Nhược điểm

Chỉ định hạn chế.

Đối với mẹ: không thể áp dụng cho các trường hợp mẹ bị bệnh lý.

Đối với thai nhi: chỉ làm được đối với trường hợp ngôi chỏm, trong một số trường hợp nhất định còn có thể gây nhiều thương tổn cho thai nhi.

Kết luận

Giác hút không thể thay thế được cho mổ lấy thai cũng như cho forcefs. Mỗ lấy thai, forcefs hay giác hút đều có những chỉ định riêng. Rất nhiều trường hợp giác hút không có chỉ định chính vì quyền lợi của mẹ cũng như của con.

Cần phải tôn trọng triệt để các điều kiện và các chỉ định, chống chỉ định.

Tuyệt đối không phải vì giác hút dễ dàng mà ta lạm dụng, dễ gây nhiều tai biến cho mẹ và cho con.

Bài viết cùng chuyên mục

Bài giảng suy thai cấp tính trong chuyển dạ

Suy thai cấp tính là một tình trạng đe doạ sinh mạng thai, sức khoẻ thai và tương lai phát triển tinh thần, vận động của đứa trẻ sau này. Suy thai cấp tính là nguyên nhân của 1/3 số trường hợp tử vong chu sinh.

Bài giảng chẩn đoán ngôi thế kiểu thế

Thai được bao bọc bởi một khối lượng nước ối lớn. Thai nằm trong buồng tử cung theo tư thế  đầu cúi gập, lưng cong, chi trên gấp trước ngực, chi dưới gấp trước bụng.

Bài giảng lạc nội mạc tử cung

Lạc nội mạc tử cung là trường hợp khi có mặt tổ chức tuyến, đệm hay tổ chức giống nội mạc tử cung ở ngoài buồng tử cung. Hình ảnh lạc nội mạc tử cung rất đa dạng. Có thể ở trong phúc mạc hay ngoài phúc mạc.

Bài giảng sự chuyển dạ

Cho tới nay người ta chưa biết rõ ràng và đầy đủ những nguyên nhân phát sinh những cơn co chuyển dạ. Người ta đã đưa ra nhiều giả thuyết để giải trình, có một số giả thuyết được chấp nhận.

Tư vấn xét nghiệm HIV, AIDS ở phụ nữ có thai

Về nguyên tắc, tư vấn HIV/AIDS là tư vấn riêng biệt. Tuy nhiên, riêng tư vấn trước xét nghiệm có thế được lồng ghép một phần với giáo dục - truyền thông cho từng nhóm nhỏ.

Bài giảng thai nghén có nguy cơ cao

Thông qua bệnh sử giúp các thầy thuốc phát hiện đ­ược các yếu tố nguy cơ và xử trí sớm đư­ợc các yếu tố nguy cơ. Việc khai thác bệnh sử một cách liên tục giúp cho thầy thuốc phát hiện đư­ợc những tình trạng bệnh tiến triển khi có thai mới bộc lộ ra.

Bài giảng ngôi thóp trước trong sản khoa

Ngôi thóp trước là ngôi đầu hơi ngửa, ngôi trung gian giữa ngôi chỏm và ngôi trán. Người ta cũng coi ngôi thóp trước là một loại ngôi trán sờ thấy thóp trước, ngôi trán hơi cúi. Tiên lượng và cách xử trí gần giống ngôi trán.

Bài giảng chảy máu trong chuyển dạ và sau đẻ

Chảy máu trong chuyển dạ và sau đẻ bao gồm tất cả các trường hợp sản phụ bị chảy máu âm đạo vì bất kỳ nguyên nhân gì khi chuyển dạ, trước và sau khi thai ra khỏi tử cung trong vòng 6 giờ đầu sau khi đẻ.

Bài giảng sinh lý kinh nguyệt

Trong những vòng kinh không phóng noãn, niêm mạc tử cung chỉ chịu tác dụng của estrogen, sẽ không có các xoang nối tiếp động tĩnh mạch mà chỉ vỡ các tiểu động mạch xoắn ốc.

Bài giảng tia xạ và thai nghén

Giai đoạn sắp xếp tổ chức: giai đoạn này có thể kéo dài đến 12 tuần tính theo ngày đầu của kỳ kinh cuối. Đây là giai đoạn đầy kịch tính, thai vô cùng nhạy cảm với tia X

Bài giảng chửa trứng

Chửa trứng là do sự phát triển bất thường của các gai rau, nguyên bào nuôi phát triển quá nhanh nên tổ chức liên kết bên trong gai rau cùng với các mạch máu không phát triển theo kịp.

Bài giảng dụng cụ tử cung (vòng tránh thai)

Dụng cụ tử cung còn gọi là vòng tránh thai được sử dụng rộng rãi nhất ở nước ta. dụng cụ tử cung làm bằng chất dẻo, có chứa muối barium, vì vậy cản quang với tia X.

Bài giảng vệ sinh kinh nguyệt

Người ta thường nói, kinh nguyệt là tấm gương phản ánh sức khoẻ người phụ nữ, do đó khi có kinh nguyệt, cần phải giữ vệ sinh cần thiết để cơ thể được sạch sẽ và tránh mắc các bệnh đường sinh dục.

Bài giảng ngôi mông sản khoa

Ngôi mông là một ngôi bất thường. Là một ngôi có khả năng đẻ đường dưới nhưng dễ mắc đầu hậu vì vậy nếu không được chẩn đoán sớm, tiên lượng tốt và xử lý thích hợp thì nguy cơ cho mẹ và thai sẽ rất cao.

Bài giảng u nguyên bào nuôi

Ung thư nguyên bào nuôi tần suất 1/40.000 phụ nữ có thai, gần 50% sau chửa trứng, 25% sau sẩy thai, 22% sau đẻ thường và sau đẻ thường 2-3%. Bệnh nguyên bào nuôi có tỉ lệ 1/1.200 thai nghén ở Mỹ và 1/120 thai nghén ở vùng Đông Nam Á.

Bài giảng thiếu máu và thai nghén

Thiếu máu trong thai nghén chiếm từ 10 - 15% thiếu máu nặng chiếm 1/5 trường hợp tổng số thiếu máu trong thai kỳ. Bệnh lý thiếu máu sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong mẹ và thai nhi (có thể suy thai, đẻ non...).

Chăm sóc trẻ nhẹ cân non tháng

Một thế kỷ trước đây, ngay cả ở châu Âu, trẻ nhẹ cân và thiếu tháng cũng không có cơ hội để sống, cái chết của trẻ thấp cân và đẻ non luôn là nỗi đau vô hạn đối với người mẹ và gia đình.

Bài giảng uốn ván rốn

Uốn ván rốn là một bệnh nhiễm khuẩn nhiễm độc do trực khuẩn Clostridium tetani, gram (+) gây ra, là loại bệnh hay gặp ở các nước đang phát triển, có tỉ lệ tử vong cao (34-50%) tuỳ từng thông báo của từng nước.

Bài giảng ung thư buồng trứng và khối u biểu bì

Cho đến nay, người ta chưa biết rõ nguyên nhân, tuy vậy những yêu tố như ô nhiễm môi trường đặc biệt là chất asbcstos, và bột talc là hai chất hoá học công nghiệp.

Bài giảng nôn do thai nghén

Nguyên nhân gây nôn chưa rõ, nhưng người ta tin rằng nó có liên quan đến nồng độ hormon tăng cao trong 3 tháng đầu của thai nghén mà chủ yếu là nồng độ estrogen, progesteron và HCG.

Bài giảng sự tiết sữa và cho trẻ bú

Hiện tượng chế tiết bắt đầu ngay từ tháng thứ 3, tạo ra sữa non. Sữa non giàu protein, lactose và globulin miễn dịch. Sữa non tồn tại cho đến lúc xuống sữa, tức là sau đó vài ngày.

Bài giảng sức khỏe sinh sản vị thành niên

Tuổi vị thành niên là những người ở sau tuổi thiếu nhi và trước tuổi trưởng thành. Đây là giai đoạn chuyển tiếp nhưng là một giai đoạn khác biệt và quan trọng trong cuộc sống con người.

Bài giảng ngôi mặt trong sản khoa

Ngôi mặt là ngôi đầu ngửa hẳn, mặt trình diện trước eo trên. Mốc của ngôi là cằm. Ngôi mặt là ngôi đẻ khó hơn ngôi chỏm. Ngôi mặt kiểu thế trước dễ đẻ hơn ngôi mặt kiểu thế sau, nhưng chỉ có một kiểu sổ là cằm vệ, cằm cùng không sổ được.

Bài giảng viêm âm đạo cổ tử cung

Khi âm đạo bị viêm nhiễm, chất dịch tiết ra nhiều, gây khó chịu làm cho người phụ nữ lo lắng, trong trường hợp này dù màu sắc như thế nào trắng hay vàng, có mùi hay không đều là bệnh lý.

Bài giảng choáng (sốc) trong sản khoa

Viêm nhiễm đường sinh dục, nhiễm trùng ối gây rối loạn chuyến hoá của tế bào tổ chức gây choáng và khả năng sử dụng oxy tế bào giảm nặng do màng tế bào bị tổn thương.