Giải phẫu bệnh ung thư gan

2012-11-29 05:26 PM

Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Gan và phổi là 2 tạng thường bị di căn bởi các ung thư từ nơi khác. Đa số ung thư của gan là ung thư do di căn, thường nhất là từ ung thư vú, ung thư phổi, ung thư đại tràng.

Theo Parkin và cộng sự, 1988, thì ung thư gan đứng hàng thứ 8 trên thế giới, đứng hàng thứ 7 ở các nước đang phát triển.

Ở những vùng rộng lớn của Trung Quốc, Đông Nam Á, Nam Phi, Sahara, ung thư gan là loại ung thư hay gặp nhất ở nam giới. Tỉ lệ mắc bệnh ít hơn ở một số nước vùng Địa trung hải. Tỉ lệ mắc bệnh thấp ở Bắc Âu, Mỹ, Canada và Mỹ la tinh.

Carcinom nguyên phát của gan

Có 2 loại chính: carcinom tế bào gan (90%) và carcinom tế bào ống mật (10%). Loại thứ ba rất hiếm gặp, có hình thái vi thể của hai loại trên, được gọi là carcinom tế bào gan-ống mật, có lẽ xuất nguồn từ tế bào nguyên thủy và có khả năng biệt hoá thành 2 loại tế bào.

Riêng loại carcinom tế bào gan (HCC, Hepato-cellular carcinoma), gần đây được chú ý nhiều vì lý do sau đây:

Xuất độ bệnh thay đổi, khác nhau tùy theo vùng địa dư.

Có nhiều hiểu biết mới về ảnh hưởng của các yếu tố gây bệnh.

Có khả năng làm giảm xuất độ bệnh.

Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.

Về dịch tễ học

Có sự khác biệt rõ ràng giữa tần suất của carcinom tế bào gan (cách biệt nhau 30-40 lần) giữa nhiều xứ khác nhau. Đây là một trong những ung thư thường gặp nhất ở Châu Á, Châu Phi. Ngược lại, bệnh chỉ chiếm 2-3% các carcinom ở các xứ Bắc Âu, ở Hoa Kỳ, ở Canada. Có sự tương ứng rõ ràng giữa tần suất bệnh với tình trạng nhiễm HBV. Ở những vùng có nguy cơ mắc bệnh cao, người ta thấy luôn luôn có chất đánh dấu HBV trong máu bệnh nhân bị u, bệnh diễn tiến cấp tính hơn, tuổi mắc bệnh có thể dưới 40, tỉ lệ mắc bệnh nam giới/nữ giới là 3/1. Ngược lại những vùng ít có nguy cơ mắc bệnh như ở Tây Âu và Hoa Kỳ, chất đánh dấu HBV chỉ có trong ít hơn phân nửa số bệnh nhân, bệnh có khuynh hướng xảy ra ở người già bị xơ gan, những người có HBsAg dương tính từ lúc còn nhỏ (do nhận từ mẹ), những bệnh nhân được thẩm phân phúc mạc, có bệnh ưa chảy máu, những người có quan hệ tính dục với người mang HBsAg, đồng tính luyến ái, nghiện hút, nhân viên y tế có tiếp xúc với máu và các sản phẩm của máu. Bệnh diễn tiến chậm hơn, tỉ lệ mắc bệnh nam giới/nữ giới là 9/1.

Nguyên nhân và sinh bệnh học

Nhiễm HBV và carcinom tế bào gan: theo các dữ kiện dịch tễ học kể trên, có sự tương ứng rõ ràng giữa tần suất bệnh carcinom tế bào gan và nhiễm HBV. Các chất đánh dấu HBV là kháng nguyên bề mặt của HBV (HBsAg) hoặc là kháng thể của kháng nguyên lõi của virus (Anti HBcAg).

Sự hiện diện của HBsAg trong máu chứng tỏ có tình trạng nhiễm HBV: hoặc là mang mầm bệnh, hoặc là đang bị viêm gan mạn tính. Tại những vùng có tần suất bệnh cao, có nhiều người mang mầm bệnh từ lâu, từ lúc còn là bào thai bị lây truyền từ mẹ. Tình trạng nhiễm virus sớm này làm cho ung thư có thể có ở những người trẻ. Trên những người mang mầm bệnh lâu ngày, người ta cũng tìm thấy kháng nguyên bề mặt HBV trong cả tế bào gan bình thường và tế bào gan ung thư, tìm thấy ảnh hưởng của DNA của virus trên bộ gen của các tế bào này. Như vậy loại virus này cũng giống như các virus sinh ung khác, có khả năng lồng ghép hoàn toàn hoặc một phần các thông tin di truyền của mình vào tế bào ký chủ.

Ở loài vật, carcinom tế bào gan được gây ra bởi một tác nhân có liên quan gần với HBV. Ví dụ: loài mác-mút có xuất độ cao bị mắc bệnh viêm gan mạn tính và carcinom tế bào gan. Trên loài vật này, người ta tìm thấy các hạt của virus (giống như các hạt tìm thấy ở người bị nhiễm HBV) trong một số u, phát hiện ra được ảnh hưởng của virus trong DNA của tế bào u, nhận thấy có phản ứng chéo của các kháng nguyên bề mặt và kháng nguyên lõi virus của 2 loại ung thư (của người và của loại mác-mút).

Một khảo sát về dịch tễ học cho thấy trên 3400 người mang HBV lâu ngày thì có 61 trường hợp bị carcinom tế bào gan sau 3-5 năm và trong 19000 người lành bệnh (không có HBV) thì chỉ có 1 người bị carcinom tế bào gan.

Loại virus viêm gan C (HCV) mới đây được mô tả như là tác nhân gây viêm gan không A không B sau truyền máu và viêm gan đơn phát (viêm gan phát lẻ tẻ), ngày nay cũng được phát hiện là nguyên nhân của carcinom tế bào gan.

Bệnh xơ gan và carcinom tế bào gan

Ở những nơi được coi như ít có nguy cơ bị ung thư gan, ít có tình trạng nhiễm HBV, thì có 80-90% carcinom tế bào gan xuất hiện trên gan bị xơ, 10% còn lại thì gan không bị xơ, đặc biệt là ở trẻ em. Xuất độ bệnh thay đổi tùy theo loại xơ gan, trong đó xơ gan sau viêm gan mạn tính do HBV có đến 15-25%, xơ gan sắc tố có 15-30%, xơ gan do uống rượu có từ 3-5% (xuất độ này thấp có lẽ do diễn tiến bệnh nhanh).

Nói chung, ở những vùng ít có nhiễm HBV thì có từ 5-15% trường hợp xơ gan bị trở thành carcinom tế bào gan, còn những vùng có nhiều trường hợp bị nhiễm HBV thì tỉ lệ này là 50%. Có sự khác biệt tỉ lệ như trên, bởi vì nguyên nhân thông thường nhất của xơ gan là viêm gan mạn tính do HBV.

Các tác nhân khác và carcinom tế bào gan

Nhiều báo cáo nhận xét rằng sự tăng xuất độ của ung thư gan có liên quan đến tình trạng sử dụng thuốc ngừa thai uống và các steroid của nội tiết tố nam.

Chất aflatoxin B1 đã được chứng minh là gây ung thư gan ở chuột, gia cầm, cá. Chất này được coi như là một nguyên nhân làm tăng xuất độ bệnh ở những xứ nhiệt đới, bởi vì ở các xứ này các loại hạt và đậu được cất giữ không sạch sẽ, dễ bị nhiễm nấm Aspergilus flavus. Chất mycotoxin và các chất chuyển hoá của nó hoạt động như chất sinh ung. Tuy nhiên, năm 1979, Lutwick đã chứng minh rằng aflatoxin chỉ ức chế miễn dịch qua trung gian tế bào và do đó tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của tình trạng nhiễm HBV lâu dài.

Một số chất dẫn xuất từ thực vật như cycasin, pyrolizidine, có trong trà phúc bồn tử cũng được nghi ngờ là sinh ung nhưng không có chứng cớ rõ ràng.

Tất cả những tác nhân và yếu tố sinh bệnh vừa kể trên chỉ có liên quan đến carcinom tế bào gan, mà không liên quan đến tế bào ống mật. Đối với loại carcinom tế bào ống mật, người ta nghi ngờ một số yếu tố gây bệnh như chất thorotrast (chất cản quang dùng để chụp X quang đường mật), các sán lá gan nhất là Clonorchis sinensis.

Hình thái giải phẫu bệnh

Đại thể:

Có 3 hình thái tổn thương: một ổ (thường là khối to), nhiều ổ rải rác, ung thư xâm nhập lan toả (nhiều khi chiếm trọn gan).

Cả 3 loại đều làm gan to (2000-3000g) đặc biệt là 2 loại đầu làm gan to có bờ không đều. Tổn thương lúc còn bé có màu trắng vàng, lúc to có thêm những vùng xuất huyết, hoại tử. Loại thứ 3 thì có thể nằm trên nền xơ gan. Carcinom tế bào gan, khi có các tế bào gan biệt hoá rõ tiết mật, có thể có màu xanh lá cây. Carcinom tế bào ống mật thì lại hiếm khi có ngấm mật ngoại trừ phần ngoại biên bị ngấm từ mô gan xung quanh, nhưng thường cứng chắc vì có xơ hoá dày.

Các carcinom tế bào gan đều dễ xâm nhập mạch máu, có khi tạo thành những đám ăn lan ngoằn nghèo theo tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch gan, tĩnh mạch chủ dưới và tim phải.

Có 3 loại vi thể:

Carcinom tế bào gan (HCC)

Loại biệt hoá rõ và vừa: Tế bào u có hình dạng gần giống tế bào gan bình thường. Kích thước tế bào và nhân thay đổi. Hạt nhân rõ. Thỉnh thoảng có phân bào. Bào tương bình thường, có khi có thể vùi của sắc tố mật. Các tế bào u sắp xếp thành bè hoặc tiểu thùy, hoặc dạng tuyến. Một dạng hiếm gặp là dạng tế bào sáng (do bào tương chứa rất nhiều glycogen), giống carcinom tế bào sáng ở thận. Có thể có những ống mật nhỏ có vi nhung mao.

Loại biệt hoá kém: Hình thái rất thay đổi với các đại bào đa dạng hoặc với tế bào nhỏ không biệt hoá, hoặc với tế bào dẹp. Các đại bào đa dạng thường có nhiều nhân, nhiều phân bào bất thường, sắp xếp hỗn loạn thành bè xen lẫn với những vùng mô hoại tử thiếu máu. Các tế bào dẹp sắp xếp giống sarcom, thường có nhiều mô đệm sợi, có khi mô đệm này có nhiều mạch máu tạo nên hình ảnh giống sarcom mạch máu. Hiếm khi có hình ảnh giống ống mật trong u.

Trong carcinom tế bào gan, nhất là loại biệt hoá rõ, có thể tìm thấy các thể vùi trong bào tương, điển hình là thể vùi Mallory. Khi có viêm gan siêu vi B kéo dài, tế bào u có bào tương chứa nhiều kháng nguyên bề mặt HBV (thấy được bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang và immunoperoxydase). Ngoài ra, trong 50-80% u người ta tìm thấy alpha-fetoprotein (AFP) và trong 30% u, tìm thấy kháng nguyên phôi (CEA).

Carcinom tế bào ống mật:

Hầu hết là dạng carcinom tuyến biệt hoá rõ xơ hoá, với cấu trúc tuyến và ống lót bởi các tế bào lập phương hoặc trụ cao thoái sản, kèm mô đệm dày sợi tạo keo. Có khi có những bọc nhỏ với các nhú. Trong các tế bào và ống tuyến thường có chất nhầy chứ không phải mật, do đó, nếu trên mẫu sinh thiết bằng kim rất khó phân biệt với các carcinom tuyến di căn. Ít khi có xâm nhập mạch máu, nếu có, thì xâm nhập dưới dạng những tế bào u riêng lẻ vào mạch máu, chứ không xâm nhập thành những đám tế bào dày như carcinom tế bào gan. Cũng không có kèm xơ gan, không có các kháng nguyên HBV hay chất AFP.

Carcinom tế bào gan-ống mật: Có hình thái hỗn hợp của 2 loại trên.

Biểu hiện lâm sàng

Các carcinom tế bào gan hiếm khi được chẩn đoán sớm vì các triệu chứng lâm sàng ban đầu của bệnh bị che dấu bởi các triệu chứng của bệnh gan có trước đó như viêm gan mạn tính, xơ gan. Vì vậy, thời gian sống thêm từ lúc được chẩn đoán thường dưới 6 tháng.

Các triệu chứng khi bệnh đã rõ ràng gồm: gan to, đau, rối loạn chức năng gan, sụt cân, sốt, tăng hồng cầu (do erythropoietin được sản xuất tại chỗ). Giảm đường huyết do nhiều chủ mô gan bị hư.

Các kỹ thuật như X quang mạch máu gan, dùng đồng vị phóng xạ, chụp điện toán cắt lớp, cộng hưởng từ trường hạt nhân, có thể giúp phát hiện bệnh nhưng không thể phân biệt với u lành hoặc với ung thư di căn. Sinh thiết bằng kim, soi ổ bụng, mổ bụng thám sát thường là cần thiết để có chẩn đoán chính xác.

Xét nghiệm AFP trong huyết thanh dương tính trong 50-90% trường hợp. Cần nhớ là xét nghiệm này cũng dương tính trong các bệnh lý khác như: các ung thư xuất nguồn từ mô của túi noãn hoàng tồn dư, u tế bào mầm của tinh hoàn và buồng trứng, ung thư dạ dày, ung thư tụy tạng, xơ gan, hoại tử gan nặng, viêm gan mạn tính, có thai thường, có thai với thai yếu hoặc thai chết, các dị tật của ống thần kinh của thai như vô não và đốt sống đôi. Tuy nhiên, nếu mức độ AFP tăng cao trên 150-200mg/ml thì thường là do carcinom tế bào gan. Carcinom tế bào gan cũng sản xuất, dù hiếm, các chất như CEA, chorionic gonadotropin, regan isoenzyme và erythropoietin.

Diễn tiến

Các ung thư gan có thể cho di căn theo đường máu tới phổi, xương (nhất là xương sống), thượng thận, não.

Di căn theo đường limphô đến các hạch quanh rốn phổi, quanh tụy tạng, cạnh động mạch chủ trên và dưới cơ hoành.

Hai đường di căn kể trên thường thấy trong khoảng 50% trường hợp carcinom tế bào ống mật, và hiếm gặp hơn trong các carcinom tế bào gan.

Khoảng 5% các carcinom tế bào gan xâm nhập qua bao gan, ăn lan đến cơ hoành, thành ngực phải, xoang màng phổi, xoang phúc mạc (có khi gây xuất huyết nặng trong ổ bụng).

Hầu hết bệnh nhân chết vì suy gan, hoặc xuất huyết tiêu hoá (vỡ tĩnh mạch thực quản), hoặc vì suy kiệt, bội nhiễm vi khuẩn, xuất huyết trong ổ bụng.

Hiện nay người ta đang cố gắng giảm bớt tần suất bệnh bằng cách chủng ngừa viêm gan B tại những nơi có nguy cơ cao mắc bệnh này. Đã có thuốc chủng ngừa, nhưng kết quả chưa được đánh giá hoàn toàn.

U nguyên bào gan

Rất hiếm gặp, u thường được phát hiện ở trẻ em dưới 2 tuổi, ít có ở người lớn.

Lúc được chẩn đoán, 1/3 trường hợp đã có di căn phổi, não, hạch limphô.

U thường gây đau nhiều, do đó được phát hiện sớm hơn các carcinom, nên thường có thể điều trị thành công.

Chẩn đoán phân biệt với carcinom (cũng có ở trẻ em) thường dựa vào:

(1) Bệnh nhi thường có kèm thêm dị tật bẩm sinh như dị tật thận.

(2) Một số u nguyên bào gan có chỗ vôi hoá.

(3) AFP trong huyết thanh cao bất thường.

Có 2 loại u nguyên bào gan, cả 2 đều có dạng khối to đơn độc hoặc có nhiều cục rải rác.

Loại thượng mô

Diện cắt màu trắng xám đồng nhất, gồm những tế bào phôi và những tế bào thai lẫn lộn. Tế bào phôi nhỏ, có bào tương ít, nhân tròn hay bầu dục to đậm, xếp thành dãy hay thành hình hoa hồng (giống như trong u nguyên bào thần kinh). Tế bào thai nhiều bào tương hơn, chứa mỡ, glycogen hoặc mật, có hình thái giống tế bào gan hơn.

Loại hỗn hợp

Diện cắt có nhiều màu hơn, xám, xuất huyết, màu mật và có những chỗ đọng vôi. U gồm các loại tế bào thượng mô kể trên, xen lẫn với các thành phần trung mô (chất dạng xương, sụn, cơ vân) và các cấu trúc dạng ống chứa nhầy.

Cả 2 loại đều diễn tiến như nhau, đưa đến tử vong trong vòng 1 năm nếu không được cắt bỏ.

Sarcom mạch máu

Hiếm gặp. Có thể trước đó bệnh nhân đã tiếp xúc với một số hoá chất như vinyl chloride, arsenic, thorotrast. Bệnh có xuất độ cao ở công nhân các xưởng có dùng vinyl chloride và ở những công nhân vườn nho có tiếp xúc với chất diệt côn trùng (chất arsenic) dưới dạng phun. Chất thorotrast thì được dùng để làm chất cản quang cho kỹ thuật X quang đường mật. Thời gian từ lúc tiếp xúc với các hoá chất tới lúc có u khoảng vài chục năm. Trước đó, trong gan có thể đã có những thay đổi tiền ung, với tăng sản tế bào gan, tăng sản các xoang mao mạch, tăng sản tế bào Kupffer, tích tụ nhiều sợi võng quanh các xoang mao mạch. Sau đó, hình thành các khe mạch chứa đầy máu, lót bởi các tế bào nội mô dẹp thoái sản hoặc bởi các tế bào đa diện. Thường có kèm các ổ hồng cầu thoát mạch và thấm nhập limphô bào.

U xâm nhập mạnh, di căn nhiều đến phổi, màng phổi, lách, hạch, xương, các nơi khác và gây chết trong vòng 1 năm.

Ung thư gan do di căn

Thường gặp nhiều hơn so với ung thư nguyên phát.

Bất kỳ ung thư nào cũng có thể cho di căn đến gan, nhưng thường nhất là ung thư vú, ung thư phổi, ung thư đại tràng. Điển hình, gan to với nhiều ổ di căn rải rác. Các ổ này lớn nhanh so với lượng máu nuôi, dễ bị hoại tử trung tâm, do đó khi nhìn từ bề mặt gan dễ thấy các ổ di căn bị lõm ở giữa.           

Hiếm khi chỉ có một ổ di căn duy nhất, khi đó, dù cắt bỏ được ổ này, cũng sẽ có nhiều ổ khác xuất hiện dù trễ hơn.

Các ổ di căn nói chung có đặc tính về hình thái giống như nơi nguyên phát. Tuy nhiên có nhiều trường hợp các ổ di căn có đặc tính kém biệt hoá hơn nơi nguyên phát, bởi vì các dòng tế bào ung thư có tiềm năng di căn theo đường máu thường có khuynh hướng xâm nhập hơn và ít biệt hoá hơn. Rất hiếm khi các ổ di căn có độ biệt hoá rõ hơn nơi nguyên phát.

Thường các ổ di căn chỉ làm gan to, hiếm khi gây ra các triệu chứng lâm sàng khác hoặc làm rối loạn các chức năng gan. Khi có triệu chứng thường là vàng da, vàng mắt kèm theo các thay đổi bất thường của các chức năng gan.

Để chẩn đoán xác định có thể sử dụng các kỹ thuật như đồng vị phóng xạ, X quang động mạch thân tạng, siêu âm. Trong đa số trường hợp, các kỹ thuật này giúp chẩn đoán chính xác. Sinh thiết mù bằng kim cũng giúp chẩn đoán dương tính.

Xếp hạng TMN cho ung thư gan nguyên phát

TX: chưa thể đánh giá đúng u nguyên phát.

T0: chưa rõ ràng có u nguyên phát.

T1: u đơn độc, đường kính lớn nhất là 2cm hoặc nhỏ hơn, chưa xâm nhập mạch máu.

T2: u đơn độc, đường kính lớn nhất là 2cm hoặc nhỏ hơn, đã xâm nhập mạch máu. Hoặc nhiều u giới hạn trong một thùy và không có u nào trên 2cm, chưa xâm nhập mạch máu. Hoặc u đơn độc, đường kính lớn nhất trên 2cm, có hoặc không có xâm nhập mạch máu.

T3: u đơn độc, đường kính lớn nhất trên 2cm, đã xâm nhập mạch máu. Hoặc nhiều u giới hạn trong một thùy mà không có u nào trên 2cm, có xâm nhập mạch máu.

T4: nhiều u ở hai hoặc nhiều thùy, hoặc u đã xâm nhập vào nhánh tĩnh mạch cửa hoặc tĩnh mạch gan. (Theo xếp loại đường kẽ giữa nền túi mật và tĩnh mạch chủ dưới phân chia gan làm 2 thùy).

Nx: hạch limphô vùng không thể đánh giá được.

N0: không có hạch limphô vùng bị di căn.

N1: có hạch limphô vùng bị di căn.

M: di căn xa.

Bài viết cùng chuyên mục

Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù

Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.

Giải phẫu bệnh hạch lympho

Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).

Giải phẫu bệnh khớp xương

Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.

Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm

U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.

Giải phẫu bệnh u lành phần mềm

Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.

Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm

Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.

Giải phẫu bệnh phần mềm

Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.

Giải phẫu bệnh ruột non

Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.

Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt

Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết

Giải phẫu bệnh tinh hoàn

Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.

Giải phẫu bệnh dương vật

U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh tuyến giáp

U giả, được hình thành do sự tồn tại của mô ống giáp-lưỡi, tiến triển rất chậm, 1/3 trường hợp có từ lúc mới sinh, 2/3 trường hợp chỉ xuất hiện khi bệnh nhân lớn.

Giải phẫu bệnh Carcinom vú

Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).

Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú

Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ

Giải phẫu bệnh của tuyến vú

Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan

Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.

Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật

Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.

Giải phẫu bệnh của đường mật

Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.

Giải phẫu bệnh của gan

Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp

Giải phẫu bệnh u phúc mạc

Đó là những khối dạng bọc, to hoặc nhỏ, ở mạc treo ruột hoặc dính vào phúc mạc dọc theo thành bụng. Có thể chẩn đoán nhầm với các u khác trong bụng.

Giải phẫu bệnh u và giả u ruột

Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.

Giải phẫu bệnh u đại tràng

Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma

Giải phẫu bệnh của ruột thừa

Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng

Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.

Giải phẫu bệnh đại tràng

Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.

Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày

Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.

Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày

Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.

Một số tổn thương giải phẫu bệnh dạ dày

Môn vị có thể bị nghẽn và tổn thương thực thể, có thể do mất trương lực của dạ dày và ruột trên bệnh nhân bị viêm phúc mạc làm liệt ruột.

Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày

Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.

Giải phẫu bệnh viêm dạ dày

Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày

Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).

Giải phẫu bệnh dạ dày

Các tế bào nội tiết phân bố rải rác trong các tuyến ở những vùng khác nhau của dạ dày. Ngoài ra, các tế bào này nằm rải rác khắp ống tiêu hoá và nếu tính tổng số các tế bào này thì ống tiêu hoá là cơ quan nội tiết lớn nhất cơ thể.

Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn

U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng

Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.

Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng

Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung

Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.

Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung

Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung

Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.

Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh

Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.

Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh

Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.

Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi

Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL

Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung

U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao

Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung

Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung

Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.

Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung

Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman

Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và thuốc

Xuất huyết bất thường, và có tác dụng cộng hưởng với progesterone, giúp hạ liều progestin trong viên thuốc ngừa thai.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung

Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.

Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung

Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung

Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.

Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung

Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.

Giải phẫu bệnh bệnh thực quản

Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Giải phẫu bệnh viêm xương

Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.

Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương

Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.

Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng

Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.

Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm

Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu

Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.

Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não

Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.

Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh

Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.

Giải phẫu bệnh viêm não màng não

Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.

Giải phẫu bệnh ung thư

Các ung thư  thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.

Giải phẫu bệnh khối u

U là khối mô tân tạo. Các thuật ngữ lành tính và ác tính tương quan với quá trình tân sinh. U lành tính phát triển khu trú, tại chỗ; u ác tính xâm nhập mô, và có thể di căn đến cơ quan xa.

Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Giải phẫu bệnh sốc

Sốc là tình trạng suy giảm tuần hoàn cấp làm lưu lượng máu ở mô thiếu hụt, dẫn đến vô oxy tại tế bào. Sốc là một biến chứng tuần hoàn máu có nhiều biểu hiện đa dạng gây những rối loạn mô khác nhau.

Giải phẫu bệnh đông máu nội mạch lan tỏa

Nhiễm khuẩn gây tổn thương lan tỏa nội mạc mạchh máu (do virút, vi khuẩn Gram âm, Rickettsia, Aspergillosis, Histoplasmosis, ký sinh trùng sốt rét v.v....).

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối

Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch

Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu

Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).

Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết

Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.

Giải phẫu bệnh phù

Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.

Giải phẫu bệnh viêm lao

Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.

Giải phẫu bệnh viêm giang mai

Xoắn khuẩn chưa hề được nuôi cấy trong môi trường nhân tạo và rất yếu, dễ bị hủy hoại do hóa chất, hoặc do sức nóng, khô hanh, nhưng chịu được lạnh.

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm

Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.

Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm

Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán (  ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).

Tổn thương cơ bản của tế bào và mô

Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.

Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh

Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.

Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh

Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng

Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.

Lịch sử giải phẫu bệnh

Sau Hippcrate có Galen, Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã gốc Hy Lạp, và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.