Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

2012-11-25 10:50 AM

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp. Khi có vật cản trở, thường kèm cơn co mạch kéo dài, vì vậy, lấp hẹp có thể trở thành lấp kín khi cơn co mạch kéo dài, và lúc này sẽ tạo hậu quả như một lấp kín. Vật cản dòng huyết lưu của động mạch hoặc tĩnh mạch đều gây những hậu quả tùy thuộc nhiều yếu tố giải phẫu học và sinh lý bệnh học.

Lấp động mạch

Ngưng máu (ischemia: ischein = ngưng và aima = máu).

Đây là tình trạng ngưng hoàn toàn việc cấp máu từ một động mạch. Có nhiều nguyên nhân gây ngưng máu: (a) tổn thương vách mạch do xơ vữa hoặc viêm động mạch (b) huyết khối hoặc huyết tắc (c) chèn ép từ ngoại vi. Đôi khi có nguyên nhân do chuyển hướng dòng huyết lưu: máu chảy trực tiếp từ động mạch vào tĩnh mạch mà không qua mạng lưới vi mạch tương ứng do có nhánh nối bên động - tĩnh mạch hoặc do phồng - tĩnh mạch (bẩm sinh hoặc sau chấn thương).

Lấp tĩnh mạch

Dù lấp kín hoặc lấp hẹp, tổn thương này luôn cản trở dòng máu về tim. Nguyên nhân do (a) huyết khối (b) chèn ép từ khối u (c) viêm tĩnh mạch gây phì đại vách (d) dị tật bẩm sinh.

Lấp tắc tĩnh mạch gây những biến đổi ở mô, nhất là khi xảy ra ở tĩnh mạch lớn (như tĩnh mạch chủ trên) hoặc ở tĩnh mạch không có nhánh nối bên (như tĩnh mạch trung tâm võng mạc, tĩnh mạch thận, xoang tĩnh mạch...). Khi dòng huyết lưu tĩnh mạch vẫn tồn tại nhưng lấp tắc ở vùng ngoại vi (như ở tĩnh mạch đùi), có thể gây phù nhẹ do tăng áp lực thủy tĩnh ở đầu tận tĩnh mạch của vi mạch.

Khi huyết lưu của nhánh bên không đầy đủ, vùng mô tương ứng sẽ bị sung huyết kèm phù (ở mặt, trong trường hợp lấp tắc tĩnh mạch chủ trên). Khi có sung huyết cấp rõ rệt ở tĩnh mạch, áp lực thủy tĩnh có thể tăng cao đến mức làm vi mạch rách vỡ, chảy máu (như sung huyết và chảy máu ở hốc mắt khi có lấp tắc xoang tĩnh mạch). Trường hợp nặng có thể gây nhồi máu tĩnh mạch.

Hậu quả của lấp mạch

Sẽ ảnh hưởng đến cung cấp oxy (lấp động mạch) hoặc đến việc thải bỏ những chất cặn bã (lấp tĩnh mạch) và như vậy luôn có kèm hiện tượng vô oxy hoặc thiểu oxy. Hậu quả của lấp mạch còn tùy thuộc vị trí giải phẫu học của mạng lưới mạch máu, tình trạng chuyển hóa của các tế bào khu vực và những điều kiện hình thành lấp mạch.

Ba tình huống có thể xảy ra :

(1) nếu vật cản hiện diện ở một mạng lưới có nhiều nhánh nối bên và vẫn thông suốt, thí dụ như ở ống tiêu hóa, máu có thể lưu thông theo đường vòng và sẽ không có chút rối loạn nào (kể cả hiện tượng thiếu oxy)

(2) ngược lại, nếu vật cản hiện diện ở hệ mạch máu tận cùng, nghĩa là ở nơi động mạch không có nhánh nối bên (thí dụ như ở đại não, vùng chất trắng hay ở thận, ở động mạch trung tâm võng mạc, ở động mạch não giữa), dòng huyết lưu sẽ bị ngăn cản, máu không có đường vòng và sẽ xảy ra ngưng máu tức thì và vĩnh viễn

(3) lấp mạch hình thành dần dần, tại một số mô (như cơ tim, chi) các nhánh mạch nối bên (vốn có sẵn) nhỏ bé và lúc bình thường không sử dụng, nay giãn rộng để tạo nên một hệ thống mạch chức năng hoặc các nhánh mạch nối mới hình thành và phát triển mạnh tạo nên hệ thống tuần hoàn phụ trợ và như vậy, quá trình bệnh sẽ tiến triển theo hai giai đoạn: (a) giai đoạn tạm thời vô oxy, có thể gây những biến đổi mô ít nhiều rõ rệt (b) giai đoạn thích nghi, khi lượng huyết lưu phục hồi tương đối đầy đủ.

Quá trình chuyển hóa ở các vùng mô liên quan

Nhu cầu nhận oxy hoàn toàn khác biệt từ mô này đến mô khác và ngay trên một loại mô, nhu cầu đó cũng thay đổi tùy thuộc vào tình trạng nghỉ ngơi hoặc hoạt động. Như vậy, khả năng và thời gian chịu đựng tình trạng vô oxy cũng rất khác nhau tùy loại mô. Thời gian này đặc biệt ngắn đối với tế bào não: ngay tức thì, hoại tử mô xảy ra và không khả hồi vì mô não không tái tạo được. Chính vì vậy, vô oxy luôn là một vấn đề nan giải trong hồi sức cấp cứu. Còn các tạng khác đều có thể chịu được vô oxy trong thời gian dài hơn.

Thời gian chịu đựng tình trạng thiếu oxy

Loại mô

Thời gian (trung bình)

Hệ thần kinh trung ương

- người lớn

- trẻ nhỏ

 

3 phút

5 phút

Cơ tim, gan

20 phút

Thận

- 30 - 50 phút: tổn thương khả hồi ở ống gần

- 90 phút tổn thương không khả hồi

Niêm mạc dạ dày ruột

6 giờ

Cơ vân, da

6 đến 12 giờ

Rõ ràng lấp mạch gây những hậu quả khác nhau tùy thuộc nhiều yếu tố: lấp kín toàn bộ hoặc một phần lòng mạch, lấp động mạch hoặc tĩnh mạch, lấp đột ngột hoặc tiệm tiến.

Lấp mạch không gây thiếu oxy và không kèm tổn thương

Nếu hiện tượng lấp xảy ra ở mạch máu có hệ nhánh nối bên đang hoạt động hoặc có đủ thời gian hình thành, quá trình lấp mạch có thể không gây tổn thương và không có biểu hiện lâm sàng rõ rệt. Hiện tượng đó thường xảy ra ở thận, phổi, da.

Lấp mạch gây thiểu oxy kèm tổn thương

Lấp động mạch: Không hoàn toàn hoặc không được hỗ trợ bởi hệ nhánh nối bên sẽ gây ngưng máu tương đối. Hậu quả là những ổ hoại tử nhỏ rải rác ở mô, tế bào vốn nhạy cảm với tình trạng thiếu oxy (thí dụ ở thận). Ngưng máu tương đối và kéo dài cũng có thể gây những tổn thương thoái hóa kèm rối loạn nuôi dưỡng, thí dụ: teo co cơ phần trước cẳng tay (còn gọi là hội chứng Volkman) thường xảy ra sau: (a) chấn rập động mạch cánh tay vùng nếp gấp khuỷu tay (b) bó bột quá chặt chèn ép động mạch đó.

Lấp tĩnh mạch: Dù nhiều ổ hoặc toàn bộ vẫn không gây hậu quả nghiêm trọng bởi vì các nhánh nối bên của hệ tĩnh mạch thường rất phong phú. Tuy nhiên, lấp mạch sẽ gây ứ trệ máu, phù kèm thiểu oxy và tổn thương nội mạc các mạch nhỏ, có thể gây chảy máu. Tình trạng này dễ xảy ra ở chi dưới sau lấp tắc tĩnh mạch do viêm tĩnh mạch.

Lấp mạch kèm vô oxy và hoại tử

Dù ở động mạch hoặc tĩnh mạch, lấp mạch (đặc biệt xảy ra đột ngột) kèm vô oxy thường gây hoại tử mô (còn gọi là hoại tử vô khuẩn). Đây là hoại tử cả khối mô (phụ thuộc vùng mạch máu nuôi dưỡng bị lấp tắc).

Nhiều dạng có thể xảy ra: (1) ở phổi: tổn thương phổi ứ đầy máu, giống như thịt băm nhồi (farce) (từ đó hình thành thuật ngữ nhồi máu: infarctus và infarcissement). Đó là hoại tử tạng, đến sau một lấp mạch, mặc dù vùng đó đôi khi không có màu đỏ và không ứ máu nhưng lại có màu trắng và không chứa máu. (2) hoại tử khô là vùng hoại tử đông, khô rắn, dạng mômi (xác ướp khô), do lấp động mạch nhỏ, thường xảy ra ở đầu chi luôn tiếp xúc với không khí (ngón chân, ngón tay, thùy tai...) (3) hoại tử loét là dạng hoại tử do ngừng máu ở mô da, vùng hoại tử tách dần khỏi mô sống kế cận rồi bong rời. Thí dụ: hoại tử loét do vị thế nằm, thường xảy ra ở vùng xương cùng, gót chân, nguyên nhân là do chèn ép các mạch máu hạ bì, kèm rối loạn nuôi dưỡng ở vùng mô địa phương (bất động quá lâu ngày, liệt nửa người, suy dinh dưỡng...).

Bài viết cùng chuyên mục

Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung

Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung

Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.

Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh

Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.

Giải phẫu bệnh khớp xương

Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.

Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm

U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh ung thư

Các ung thư  thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.

Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung

Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh dạ dày

Yếu hoặc thiếu hoàn toàn hay thiếu một phần cơ hoành, thường là bên trái, có thể gây ra thoát vị các bộ phận trong bụng vào lồng ngực. Dị tật này khác với thoát vị hoành (đã đề cập trong bài bệnh của thực quản).

Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng

Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh của tuyến vú

Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.

Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung

Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.

Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng

Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.

Giải phẫu bệnh bệnh thực quản

Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.

Giải phẫu bệnh viêm dạ dày

Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.

Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung

Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.

Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung

Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường