- Trang chủ
- Sách y học
- Bệnh học ngoại khoa
- Bệnh học ngoại khoa hẹp môn vị
Bệnh học ngoại khoa hẹp môn vị
Loét dạ dày-tá tràng là nguyên nhân hay gặp nhất. Tất cả mọi vị trí của ổ loét ở dạ dày hay tá tràng, ở gần hay xa môn vị, đều có thể gây nên hẹp môn vị tạm thời hay vĩnh viễn.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đại cương
Hẹp môn vị là một biến chứng của nhiều bệnh, nhưng hay gặp hơn cả là do loét và ung thư.
Về lâm sàng, hẹp môn vị ở giai đoạn muộn thường có những triệu chứng khá rõ ràng, dễ dàng cho chẩn đoán. Ngày nay, nhờ X quang và nội soi đã có thể phát hiện những hẹp môn vị sớm, chưa có biểu hiện lâm sàng.
Nguyên nhân
Loét dạ dày-tá tràng
Loét dạ dày-tá tràng là nguyên nhân hay gặp nhất. Tất cả mọi vị trí của ổ loét ở dạ dày hay tá tràng, ở gần hay xa môn vị, đều có thể gây nên hẹp môn vị tạm thời hay vĩnh viễn.
Cơ chế gây hẹp:
Ổ loét ở môn vị, gần môn vị có thể gây nên hẹp tại chỗ.
Co thắt: Thường phối hợp và làm hẹp nhiều hơn.
Viêm nhiễm: Phù nề vùng hang vị.
Co thắt và viêm nhiễm chỉ là tạm thời và có thể khỏi hẳn sau một thời gian ngắn điều trị nội khoa.
Lâm sàng:
Cách tiến triển: Bệnh tiến triển từ từ, chậm chạp. Lúc mới bắt đầu xuất hiện từng đợt, vì có hiện tượng co thắt và viêm nhiễm phối hợp. Có khi viêm, phù nề chiếm ưu thế với đặc điểm là xuất hiện từng đợt rất đột ngột, nhưng cũng giảm hoặc mất đi nhanh chóng dưới tác dụng của điều trị nội khoa. Về sau hẹp trở thành thực thể, xuất hiện thường xuyên, mỗi ngày một nặng thêm.
Tiền sử: Thường bệnh nhân đã có thời gian đau trước đó một vài năm hoặc lâu hơn. Đau theo mùa, nhịp theo bữa ăn, mỗi cơn đau kéo dài một vài tuần.
Ung thư
Là những ung thư vùng hang-môn vị, thường là ung tthư nguyên phát. Nguyên nhân này đứng hàng thứ hai sau loét. Hẹp thường diễn biến nhanh chóng nhưng cũng có thể diễn biến từ từ, chậm chạp.
Lâm sàng:
Thường là một vài tháng nay bệnh nhân thấy ăn uống không ngon, có cảm giác nằng nặng, chương chướng ở vùng trên rốn. Đau nhè nhẹ, người mệt mỏi, sút cân...Những triệu chứng này không có gì đặc hiệu nên rất dễ bỏ qua. Hay bệnh nhân đến viện là vì một khối u ở vùng trên rốn, khối u còn hay đã mất tính di động.
X quang và nội soi:
X quang giúp ích nhiều cho chẩn đoán. Có nhiều hình ảnh khác nhau:
Ống môn vị chít hẹp lại thành một đường nhỏ, khúc khuỷu, bờ không đều.
Vùng hang vị có hình khuyết rõ rệt.
Nội soi: Nội soi dạ dày - tá tràng bằng ống soi mềm thấy thức ăn còn đọng lại ở dạ dày, không thể đưa được ống xuống tá tràng, sinh thiết xác định chính xác nguyên nhân.
Các nguyên nhân khác
Tại dạ dày:
Hạch trong bệnh lympho hạt.
U lành tính.
U lao.
Bỏng: Do nhầm lẫn hay cố tình, bệnh nhân uống phải các chất toan hay kiềm có tính chất ăn mòn mạnh.
Ngoài dạ dày:
Sỏi túi mật.
Tụy:
Viêm tụy mạn tính thể phì đại.
Ung thư đầu tụy.
Hội chứng hẹp
Giai đoạn bắt đầu
Lâm sàng:
Đau: Thường là đau sau bữa ăn; tính chất đau không có gì đặc biệt; không đau nhiều lắm.
Nôn: Khi có khi không; thường có cảm giác đầy, hay buồn nôn.
Hút dịch vị:
Hút vào buổi sáng, trước giờ ăn sáng thường lệ hàng ngày để tránh những phản xạ tiết dịch. Bình thường hút được chứng 40-60 ml. Ở đây thường là trên 100ml. Trong đó có thể lẫn những cặn thức ăn còn sót lại. Những mẩu thức ăn này có khi nhìn thấy rõ ràng, nhưng thường thì phải chú ý thật cẩn thận mới khẳng định được. Dịch vị nhiều chứng tỏ có hiện tượng ứ đọng, nhưng có thể một phần là do đa tiết.
X quang:
Có ứ đọng nhẹ, cũng có khi thấy môn vị vẫn mở thuốc xuống tá tràng bình thường do những co bóp cố gắng của dạ dày. Hình ảnh cơ bản và sớm nhất trong giai đoạn này là tăng nhu động, dạ dày co bóp nhiều hơn, mạnh hơn. Hình ảnh này phải nhìn trên màn ảnh mới thấy, chụp không có giá trị. Hiện tượng tăng sóng nhu động này xuất hiện từng đợt, en kẽ, có lúc dạ dày nghỉ ngơi.
Nội soi:
Dạ dày ứ dịch ít và hình ảnh hẹp môn vị.
Giai đoạn sau
Lâm sàng:
Đau: Đau muộn, 2-3 giờ sau khi ăn, có khi muộn hơn nữa. Đau từng cơn, các cơn đau liên tiếp nhau. Vì đau nhiều nên có khi bệnh nhân không dám ăn mặc dù rất đói.
Nôn: Là triệu chứng bao giờ cũng có và có tính chất đặc hiệu của nó. Nôn ra nước ứ đọng của dạ dày, trong có thức ăn của bữa ăn mới lẫn với thức của bữa ăn cũ. Các tính chất của nôn trong hẹp môn vị:
Nôn muộn sau ăn.
Nôn ra nước xanh đen, không bao giờ có dịch mật.
Nôn được thì hết đau, cho nên có khi vì đau quá bệnh nhân phải móc họng cho nôn.
Toàn thân: Xanh, gầy, da khô, mất nước, uể oải; tiểu ít và táo bón.
Khám thực thể:
Óc ách lúc đói: Buổi sáng, khi bệnh nhân chưa ăn uống, nếu lắc bụng sẽ
nghe rõ óch ách. Triệu chứng này rất có giá trị và gặp thường xuyên.
Sóng nhu động: Xuất hiện tự nhiên hay sau khi kích thích bằng cách búng nhẹ lên thành bụng.
Dấu hiệu Bouveret: Nếu đặt tay lên vùng trên rốn, thấy căng lên từng lúc.
Bụng lõm lòng thuyền: Bụng trên rốn thì trướng, bụng dưới rốn thì lại lép kẹp tạo nên dấu hiệu bụng lõm lòng thuyền.
Hút dịch vị:
Lấy được nhiều nước ứ đọng.
X quang dạ dày có chuẩn bị:
Hình ảnh tuyết rơi.
Dạ dày giãn to.
Sóng nhu động: Xen kẽ với các đợt co bóp mạnh, dạ dày ì ra không co bóp.
Ứ đọng ở dạ dày: Sau 6 giờ, nếu chiếu hoặc chụp lại sẽ thấy thuốc còn lại ở dạ dày.
Nội soi:
Xác định nguyên nhân gây hẹp môn vị.
Giai đoạn cuối
Lâm sàng
Đau liên tục nhưng nhẹ hơn giai đoạn trên.
Nôn: Ít nôn hơn, nhưng mỗi lần nôn thì ra rất nhiều nước ứ đọng và thức ăn của những bữa ăn trước, có khi 2-3 ngày trước. Bệnh nhân thường phải móc họng cho nôn.
Toàn thân: Tình trạng toàn thân suy sụp rõ rệt. Bệnh cảnh của một bệnh nhân mất nước: Toàn thân gầy còm, mặt hốc hác, mắt lõm sâu, da khô đét, nhăn nheo. Bệnh nhân ở trong tình trạng nhiễm độc kinh niên, có khi lơ mơ vì ure máu cao hay co giật vì calci máu hạ thấp.
Khám thực thể: Dạ dày dãn rất to, xuống quá mào chậu, có khi chiếm gần hết ổ bụng, trướng không chỉ riêng ở thượng vị mà toàn bụng. Lắc nghe óc ách.
X quang
Các hình ảnh tuyết rơi, dạ dày hình chậu lại càng rõ rệt. Dạ dày không còn sóng nhu động, hay nếu có thì rất yếu ớt và vô hiệu. Sau 12-24 giờ hay hơn nữa, baryt vẫn còn đọng lại ở dạ dày khá nhiều, có khi vẫn còn nguyên.
Sau khi chụp X quang, nên rửa dạ dày để lấy hết baryt ra để phòng thủng.
Nội soi
Xác định nguyên nhân và mức độ hẹp môn vị.
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định
Các triệu chứng khá rõ và đặc hiệu, nên chẩn đoán thường dễ dàng, ít nhầm lẫn, dựa vào:
Triệu chứng cơ năng: Đau, nôn, phải móc họng cho nôn.
Triệu chứng thực thể: Lắc óc ách khi đói; dấu hiệu Bouveret.
Triệu chứng X quang: Hình ảnh tuyết rơi, dạ dày hình chậu, sau 6 giờ dạ dày còn baryt.
Nội soi: Xác định nguyên nhân hẹp môn vị.
Trong những trường hợp hẹp nhẹ, chẩn đoán thường dựa vào X quang và nội soi.
Chẩn đoán phân biệt
Bệnh giãn to thực quản.
Hẹp giữa dạ dày.
Hẹp tá tràng.
Liệt dạ dày do nguyên nhân thần kinh.
Chẩn đoán nguyên nhân
Phân biệt hẹp môn vị do loét và hẹp môn vị do ung thư dựa vào:
Tiền sử.
Triệu chứng lâm sàng.
Hình ảnh nội soi hay X quang.
Nội soi sinh thiết.
Nguyên tắc điều trị
Trước hết phải phân biệt là hẹp cơ năng hay thực thể. Hẹp môn vị cơ năng không có chỉ định điều trị ngoại khoa. Chỉ cần một thời gian điều trị nội bằng các thuốc chống co thắt, bệnh sẽ khỏi hẳn. Ngược lại, một hẹp môn vị thực thể là một chỉ định điều trị ngoại khoa tuyệt đối.
Hẹp môn vị thực thể dù ở mức độ nặng cũng không cần phẫu thuật ngay, mà sau khi nhận bệnh nhân, phải kịp thời bồi phụ lại sự thiếu hụt về nước, điện giải và năng lượng cho bệnh nhân.
Điều trị nội khoa: Chủ yếu là bù dịch - điện giải, nâng cao thể trạng cho bệnh nhân. Ngoài ra, có thể kèm theo sử dụng các thuốc kháng tiết hay thuốc điều trị bệnh loét nếu như hẹp do loét và ở giai đoạn sớm.
Điều trị phẫu thuật: Có hai phương pháp chính là nối vị tràng và cắt dạ dày.
Đối với hẹp do ung thư: Phải cắt bỏ dạ dày. Trừ những trường hợp đặc biệt: hoặc toàn thân quá yếu, hoặc tổn thương lan rộng hay có di căn, mới làm phẫu thuật nối vị tràng tạm thời.
Đối với hẹp do loét: Tốt nhất cũng là phẫu thuật cắt đoạn dạ dày. Nếu bệnh nhân yếu, tình trạng chung không cho phép, ổ loét ở vị trí cắt bỏ, thì nên dùng phẫu thuật nối vị tràng đơn giản.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh học ngoại khoa xuất huyết tiêu hóa
Xuất huyết tiêu hoá được định nghĩa là sự đào thải qua đường miệng và hay là qua đường đường hậu môn một số lượng máu từ các thương tổn của đường tiêu hoá.
Bệnh học ngoại trật khớp khuỷu
Chỉ gặp trật khớp khuỷu ra trước khi có gẫy mỏm khuỷu, các dây chằng bị đứt các cơ nhị đầu, cơ bám vào mỏm trên lồi cầu bị đụng giập hoặc rách.
Bệnh học ngoại gẫy hai xương cẳng tay
Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết di lệch chồng thì nắn các di lệch sang bên, gập góc còn lại
Bệnh học ngoại chấn thương thận
Chấn thương thận bao gồm tất cả các thương tổn của nhu mô thận, đường bài xuất nước tiểu trên và cuống thận. Giới nam thường bị hơn nữ, chiếm 75-80%, do đặc trưng về nguyên nhân của loại chấn thương này.
Bệnh học ngoại chấn thương sọ não kín
Chấn thương sọ não đã được nghiên cứu từ lâu. Từ thời Hyppocrat (460-377 trước Công nguyên) đã có những công trình nghiên cứu về chảy máu hộp sọ.
Bệnh học ngoại khoa ung thư thực quản
Ung thư thể thâm nhiễm chủ yếu phát triển ở lớp niêm mạc xâm lấn vào lớp dưới niêm mạc rồi vào lớp cơ, phát triển theo hình vòng nhẫn, do đó làm ống thực quản bị chít hẹp.
Bệnh học ngoại xơ vữa động mạch
Tổn thương khu trú ở lớp nội mạc, lớp nội mạc dày lên vừa phải. Các tế bào đặc trưng có chứa các tổ chức mỡ (tế bào bọt). Lớp áo giữa và áo ngoài bình thường.
Bệnh học ngoại u trung thất
U trung thất là một khối u có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của trung thất. Bao gồm khối u nguyên phát, thứ phát; lành ác. Bệnh lý hay gặp nhất là u tuyến ức, u thần kinh, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới.
Bệnh học ngoại khoa sỏi ống mật chủ
Khi tắc mật, dịch mật không xuống tá tràng mà ứ đọng trong gan. Sắc tố mật, muối mật vào máu, bilirubin máu tăng cao, do sắc tố mật có màu vàng nên da, giác mạc mắt có màu vàng.
Bệnh học ngoại ung thư thận
Ung thư thận chiếm 90% các loại u ác tính nguyên phát ở thận. Bệnh thường xuất hiện ở người lớn trên 40 tuổi, với tỉ lệ nam gấp 2 lần so với nữ giới. Ung thư thận chiếm 1-2% toàn bộ các loại ung thư ở người lớn.
Bệnh học ngoại khoa bỏng
Bỏng là một chấn thương gặp trong cả thời bình và thời chiến. Trong chiến tranh tỷ lệ bỏng chiếm từ 3-10% tổng số người bị thương. Ở Mỹ một năm theo báo cáo có hơn 2 triệu người bị bỏng, trong đó khoảng 100.000 người phải nhập viện
Bệnh học bỏng điện
Bỏng điện thường sâu, tổn thương tại chỗ biểu hiện ở điểm vào và ra của luồng điện, vị trí thường gặp là bàn tay, bàn chân. ở trẻ em có thể bỏng miệng, môi, lưỡi do ngậm vào cực điện.
Bệnh học ngoại ung thư phổi
Ung thư phổi là bệnh lý rất hay gặp trong phẫu thuật lồng ngực, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong những ung thư nói chung. Tỷ lệ bệnh ngày càng tăng do ngày càng có nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư.
Chẩn đoán diện tích bỏng
Sơ sinh thì đầu to, cổ ngắn, ngực bé, bụng to, Trong suốt giai đọan phát triển chi dưới tăng chiều 5 lần, chi trên 4 lần, thân 3 lần, đầu 2 lần
Bệnh học ngoại chấn thương niệu đạo
Khi dương vật mềm, niệu đạo dài khoảng 16cm, trong đó, đoạn tiền liệt tuyến dài khoảng 2,5-3cm, đoạn màng khoảng 1,2cm và đoạn xốp khoảng 12cm.
Bệnh học ngoại tắc động mạch cấp tính ở chi
Mảng xơ vữa bị loét: Các mảng xơ vữa này sau đó bị cục máu đông phủ lên trên, sự di chuyển của các cục huyết khối có thể tạo ra từng đợt gây thuyên tắc.
Bệnh học bỏng hóa chất
Trong quân đội và trong chiến tranh còn bị bỏng do các nhiên liệu lỏng của tên lửa và các hoá chất quân sự gây loét rộp da. Một số hoá chất khi tác dụng trên da và niêm mạc còn ngấm theo đường mạch máu vào cơ thể và có thể dẫn tới tử vong.
Bệnh học bỏng trẻ em
Tính diện tích bỏng dựa theo bảng của Lund và Browder hoặc của Berkow chia bề mặt các phần cơ thể thành các đơn vị diện tích phù hợp với tuổi nhằm giúp chẩn đoán chính xác diện tích bỏng.
Bệnh học ngoại trật khớp vai
Trật khớp vai là loại trật khớp phổ biến nhất trong các loại trật khớp và thường gặp ở người lớn trẻ khỏe chiếm khoảng 50 - 60 % tổng số trật khớp. Nguyên nhân và cơ chế gây trật khớp thường thấy nhất do ngã chống bàn tay hoặc chống khuỷu trong tư thế tay dạng, đưa ra sau, và xoay ngoài.
Bệnh học ngoại khoa tắc ruột
Tắc ruột do liệt ruột gặp trong các trường hợp: sỏi tiết niệu, chấn thương cột sống hoặc khung chậu (tụ máu sau phúc mạc), viêm phúc mạc, viêm phúc mạc mật, tràn dịch tiêu hóa hoặc dịch tụy trong ổ phúc mạc.
Chẩn đoán độ sâu của tổn thương bỏng
Có rất nhiều phương pháp chẩn đoán diện tích, độ sâu của tổn thương bỏng, cùng với sự phát triên khoa học và công nghệ. Trong phạm vi bài giảng, chỉ đề cập những phương pháp cơ bản, dễ áp dụng trong thực tế.
Bệnh học ngoại lồng ruột cấp ở trẻ còn bú
Lồng ruột thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn ở bé gái (2/1) trong độ tuổi bú mẹ cao nhất là từ 4 - 8 tháng. Tỷ lệ gặp thấp hơn sau 1 - 2 tuổi và hiếm gặp ở trẻ lớn.
Bệnh học ngoại u não
U não là một từ ngữ được các thầy thuốc lâm sàng gọi tên có tính cách quy ước để chỉ các u trong sọ vì thực sự u trong mô não chỉ chiếm trên dưới 50% u trong sọ.
Bệnh học ngoại khoa thoát vị đùi
Khi lỗ thoát vị đùi ở vị trí này phải chú ý: Phía ngoài cổ túi có tĩnh mạch đùi và phía trên cổ túi có động mạch thượng vị và nhánh nối động mạch thượng vị với mạch bịt.
Bỏng chiến tranh
Khi cháy tạo ra sức nóng cao, cháy lâu, có chất khi cháy tạo ra nhiều chất độc cho cơ thể, có chất gây bỏng đồng thời là chất độc cho cơ thể.