Bệnh học ngoại khoa tắc ruột

2012-10-16 10:00 AM

Tắc ruột do liệt ruột gặp trong các trường hợp: sỏi tiết niệu, chấn thương cột sống hoặc khung chậu (tụ máu sau phúc mạc), viêm phúc mạc, viêm phúc mạc mật, tràn dịch tiêu hóa hoặc dịch tụy trong ổ phúc mạc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đại cương

Tắc ruột là một hội chứng chứ không phải là một bệnh, nó được định nghĩa bởi sự ngưng trệ lưu thông của chất rắn, hơi, dịch trong lòng ruột do sự tắc nghẽn từ góc tá hỗng tràng cho đến hậu môn (tắc ruột cơ học) hoặc do tình trạng mất nhu động ruột (tắc ruột cơ năng, tắc ruột do liệt ruột). Có rất nhiều nguyên nhân gây tắc ruột. Triệu chứng lâm sàng, hậu quả và triệu chứng cấp cứu của tình trạng tắc ruột rất khác nhau ở mỗi bệnh nhân tùy thuộc vào cơ chế và vị trí chỗ tắc.

Vấn đề chẩn đoán và phương thức điều trị là những vấn đề khó khăn nhất trong các trường hợp cấp cứu ngoại khoa.

Dịch tễ học

Tắc ruột đứng hàng thứ hai sau viêm ruột thừa cấp trong các trường hợp  cấp cứu ngoại khoa ở người lớn. Tuy nhiên cũng cần để ý đến một số  nguyên nhân hay gặp nhưng dễ chẩn đoán mà gây nên tình trạng tắc ruột là thoát vị hoặc sổ thành bụng sau mổ. Ngoại trừ các bệnh cảnh trên, tắc ruột chiếm 8-10% các trường hợp cấp cứu bụng ngoại khoa.

Nguyên nhân

Tại bên trong lòng ruột

Ở ruột non:

Tắc ruột do sỏi mật: Sỏi từ túi mật rơi vào ruột non gây nên tình trạng tắc ruột ở những mức độ khác nhau.

Tắc ruột vật thể lạ: Bã thức ăn, búi giun.

Ở đại tràng: Nhất là đại tràng trái, tắc ruột hay gặp là do u phân.

Ngay tại thành ruột

Ung thư đại tràng, ruột non.

Hẹp lòng ruột do tình trạng viêm nhiễm hoặc do sẹo gặp trong các trường hợp: Bệnh Crohn, túi thừa đại  tràng sigma, viêm ruột do lao, hẹp ruột sau chấn thương, hẹp sau khâu nối ruột...

Khối máu tụ tại thành ruột trên bệnh nhân dùng thuốc chống đông.

Lồng ruột: Lồng hồi-hồi tràng, lồng hồi-đại tràng hoặc lồng đại-đại tràng.

Ở ngoài thành ruột

Ung thư phúc mạc hoặc các khối u trong ổ phúc mạc (như u buồng trứng) hoặc áp xe ở phúc mạc (áp xe ruột thừa, áp xe hố chậu...).

Do dây chằng hoặc do dính ruột: Gặp trong 80% trường hợp có  tiền sử phẫu thuật, còn lại là do tình trạng viêm nhiễm, chấn thương hoặc bẩm sinh. Các nguyên nhân trên thường hình thành các dải xơ kết dính hai quai ruột lại với nhau hoặc một quai ruột hoặc mạc nối lớn với chỗ không có phúc mạc bao phủ do tổn thương (sẹo phẫu thuật, vùng đáy  tử cung, vùng phúc mạc thành...), gây gập góc một quai ruột hoặc gây xoắn ruột hay cầm tù một đoạn ruột. Trong trường hợp đó ruột lại cầm tù thì sẽ có một hoặc nhiều quai ruột lại thắt nghẽn tại gốc mạc treo (giống trong trường hợp thoát vị).

Thoát vị nội (thoát vị khe Winslow, thoát vị góc Treitz ...) cũng có thể dẫn đến tình trạng cầm tù các quai ruột.

Xoắn ruột: Là một trường hợp tắc ruột nghiêm trọng do tắc nghẽn hoặc xoắn một quai ruột ngay tại góc mạc treo ở ruột non, xoắn ruột gần như là một hệ quả của tình trạng tắc quai đến do di chứng sau mổ. Ở ruột già, xoắn ruột hay gặp trong bệnh cảnh đại tràng sigma dài hoặc hiếm hơn là xoắn chỗ nối hồi-manh tràng (gọi là xoắn manh tràng).

Tắc ruột cơ năng

Loại tắc ruột này chiếm 5-10% hội chứng tắc ruột.

Tắc ruột do liệt ruột gặp trong các trường hợp: sỏi  tiết niệu, chấn thương cột  sống hoặc khung chậu (tụ máu sau phúc mạc), viêm phúc mạc, viêm phúc mạc mật, tràn dịch tiêu hóa hoặc dịch tụy trong ổ phúc mạc...

Nhồi máu mạc treo ruột cấp tính, huyết khối tĩnh mạch có thể dẫn đến liệt ruột hay nhiễm trùng nhiễm độc.

Ngoài ra, liệt ruột do thần kinh cơ cũng được đề cập đến gọi là giả  liệt thường do  rối loạn chuyển hóa: giảm kali máu, tăng calci máu; hoặc do dùng thuốc: thuốc kháng cholinegic, an thần. Giả liệt ruột cũng gặp trong một số trường hợp toàn thân: đái tháo đường, suy giáp, rối loạn chuyển hóa có bệnh corphyrin, bệnh xơ cứng bì, nhiễm độc chì, bệnh Hirschprung, hội chứng Oglivie (bệnh đại tràng dãn cấp tính không tắc nghẽn, có thể hồi phục) hoặc trong trường hợp đại tràng trơ hay gặp ở người già, do dùng thuốc gây mê.

Sinh lý bệnh của tắc ruột

Tại ruột non hẹp ruột ngang chỗ tắc xảy ra nhanh và nặng nề. Nhu động ruột sẽ tăng nhằm đưa thức ăn qua khỏi chỗ hẹp. Tình trạng này sẽ giảm dần khi  xuất hiện triệu chứng đau bụng. Quai đến trướng căng, đầy hơi và dịch (lưu lượng dịch tiêu hóa tiết ra tại góc Treitz là khoảng 6lít/24 giờ).

Sự gia tăng áp lực thành ruột gây nên tình trạng phù và ứ trệ tuần hoàn tĩnh mạch. Một khi áp lực trong lòng ruột tăng cao sẽ dẫn đến tình trạng trào  ngược dịch tiêu hóa, nôn dẫn đến mất nước điện giải, xét nghiệm sinh hóa sẽ giảm thể tích máu, hematocrit tăng và protid máu tăng, giảm natri máu, tăng  kali máu. Suy thận với tăng ure, creatinin máu. Cuối cùng, các quai ruột trướng căng sẽ chèn ép cơ hoành làm giảm chức năng hô hấp và phá bỏ cơ chế bù trừ.

Ở quai đi, trong những giờ đầu nhu động ruột có thể còn và bệnh nhân có thể trung đại tiện.

Ở ruột già, hậu quả cũng xảy ra tương tự nhưng chậm  hơn. Nhu động ruột giảm hoặc mất. Triệu chứng trướng bụng là nổi bật nhất, chủ yếu là hơi   nhiều hơn dịch (lượng dịch bài xuất qua vanBauhain: 700-1200ml/ngày). Nếu tình trạng quai ruột trướng căng cứ tiếp tục thì các quai đại tràng dãn to có thể khám phát hiện được. Khi dùng tay đè ép lên thành bụng thì sẽ làm gia tăng kích thước đại tràng ban đầu lên rất nhiều - định luật Laplace. Khi thành đại tràng dãn căng, mỏng có thể dẫn đến hậu quả thủng hay gặp nhất là thủng ở manh tràng.

Chẩn đoán

Hỏi và khám lâm sàng là đủ để chẩn đoán tắc ruột. Chụp x quang chỉ mang tính bổ sung giả thuyết đặt ra, giúp xác định vị trí tắc hoặc đôi khi giúp xác định cơ chế tắc; còn nếu để xác định phương thức điều trị chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng.

Triệu chứng cơ năng

Đau: Đau đột ngột hoặc âm ỉ vùng quanh rốn hoặc mạn sườn, không lan.

Đôi khi đau co thắt dữ dội như chuột rút với tư thế giảm đau.

Nôn mửa: Nôn có thể xuất hiện cùng lúc với đau, nhưng nôn xong vẫn không làm giảm đau. Đầu tiên là nôn thức ăn, sau nôn dịch mật xanh, mật vàng và về sau nữa sẽ nôn bất cứ thức ăn gì đưa vào.

Bí  trung - đại  tiện: Triệu chứng này có thể đi cùng với hai triệu chứng trên.  Ban đầu bệnh nhân có thể trung đại tiện được nhưng rất ít và không đem lại cảm giác đỡ đau, dễ chịu nào.

Triệu chứng toàn thân

Nhiệt độ có thể bình thường hoặc cao khoảng 380C.  Không có biểu hiện sốc trong những giờ đầu và tình trạng toàn thân không thay đổi nhiều.

Triệu chứng thực thể

(Phải thăm khám lâm sàng  trước khi  cho thuốc giảm đau)

Bụng trướng căng không phải xuất hiện ngay tức khắc mà tiến triển từ từ, bắt  đầu nổi gồ lên ở đường giữa rốn sang hai bên mạn sườn, nhìn bụng thấy các  gợn sóng nhu động trong những giờ đầu. Triệu chứng này phụ thuộc vào vị trí và cơ chế tắc ruột.

Khi khám bằng tay đè lên thành bụng thấy có một cảm giác đàn hồi nhưng không có phản ứng thành bụng và không đau.

Nghẽn ruột - Tắc kín một quai ruột

Là hậu quả của tình trạng xoắn ruột hoặc do dây chằng. Các triệu chứng trên chỗ tổn thương được miêu tả như trên. Triệu chứng tại chỗ thương tổn là đề  cập đến các thương tổn mạch máu kết hợp tính tiên lượng bệnh. Quai ruột lại  thắt nghẽn không chứa nhiều hơi ngoại trừ xoắn ở đại tràng. Ứ trệ tĩnh mạch sẽ dẫn đến tình trạng thoát dịch huyết tương và hồng cầu vào quai ruột đang  bị xoắn và vào trong ổ phúc mạc.

Lớp niêm mạc thành ruột bị phá hủy và tăng sinh vi khuẩn tại quai ruột bị thắt và phóng thích nội độc tố vào khoang phúc mạc gây tình trạng sốc nhiễm  trùng (bên cạnh tình trạng sốc do giảm thể tích tuần hoàn). Nhồi máu động mạch làm hoại thư ruột đưa đến thủng ruột và viêm phúc mạc toàn thể.

Tắc ruột cơ năng (tắc ruột do liệt ruột)

Ngoại trừ một số bệnh cảnh như: Nhồi máu, thoát vị bên trong ổ phúc mạc thì  tắc ruột cơ năng thường gây nên một số hậu quả có tính diến tiến chậm hơn.  Trướng bụng là triệu chứng quan trọng xuất hiện đầu tiên, chủ yếu là trướng hơi. Nôn ít xảy ra do tình trạng liệt ruột. Thể tích dịch ứ đọng thường là nhiều nhưng ít gây tình trạng thoát dịch và cơ chế hấp  thu dịch này thường kéo dài một thời gian khá lâu. Tuy nhiên, đại tràng dãn, tưới máu kém có thể làm  xuất hiện một vài cùng hoại tử làm thủng và viêm phúc mạc nghiêm trọng:

Gõ bụng nghe vang.

Không có âm ruột.

Thăm trực tràng: trực tràng rỗng.

Chẩn đoán vị trí tắc

Trướng bụng nhiều, gặp trong xoắn đại tràng; tắc đoạn hỗng tràng thấp thì có triệu chứng này; tắc đoạn hồi tràng thấp thì có triệu chứng bụng ở trung tâm; tắc đại tràng thì bụng trướng nhiều.

Bệnh sử có thể gợi ý tình trạng tắc ruột non (hội chứng Koenig: Đau bụng từng cơn dữ dội trong vài phút rồi  đỡ dần và biến mất với tiếng sôi bụng. Cơn đau kèm nổi quai ruột như rắn bò, tái diễn nhiều lần sau bữa ăn hoặc tắc đại tràng (cơn đau Duval hoặc tình trạng bán tắc ruột kéo dài 2-3 ngày có kèm đại tiện).

Chẩn đoán phân biệt

Bệnh nội khoa

Cơn đau quặn thận: Đau lan tỏa ra hai bên thắt lưng và lan xuống dưới, bụng không trướng, chụp UIV cấp cứu.

Cơn đau quặn gan.

Hôn mê đái tháo đường.

Tràn dịch màng phổi.

Nhồi máu cơ tim.

Bệnh ngoại khoa

Thoát vị nghẹt do không thăm khám kỹ, đây là một sai sót hay gặp trên lâm sàng khi không thăm khám lỗ bẹn nông trong trường hợp bệnh nhân đau bụng cấp nhằm tìm kiếm một khối cứng nhỏ ẩn nấp dưới dây chằng bẹn có kèm đau ở cổ thoát vị, thoát vị đùi.

Trường hợp bụng ngoại khoa có kèm sốt như ruột thừa viêm cấp, nhiễm trùng đường mật, viêm túi thừa sigma, viêm phúc mạc toàn thể...có thể biểu hiện dưới dạng một tình trạng tắc ruột, tuy nhiên để chẩn đoán xác định dựa vào tình trạng nhiễm trùng và triệu chứng lâm sàng tại chỗ.

Viêm tụy cấp: Đau liên tục, dữ dội có thể có biểu hiện sốc và dấu tắc ruột.

Chẩn đoán xác định dựa vào xét nghiệm sinh hóa và chẩn đoán hình ảnh.

Nhồi máu mạc treo ruột thường diễn ra trong bệnh cảnh của bệnh mạch máu: dấu tắc ruột là thứ phát sau một cơn đau lan tỏa, liên tục, đề kháng và toàn  thân biểu hiện trạng thái sốc.

Tắc ruột do liệt không điển hình: Không đau, trướng toàn  bụng, không có âm ruột. Chẩn đoán xác định bằng cách hỏi  bệnh sử  và chụp x quang.

Cận lâm sàng

X quang bụng đứng không chuẩn bị

Quai đến trướng căng trên chỗ tắc mức hơi vị trí nằm nghiêng và mức hơi dịch ở vị trí đứng thẳng.

Không thấy mức hơi dịch ở phần dưới chỗ tắc.

Vị trí, hình dạng mức hơi dịch giúp xác định vị trí tắc.

Ruột non: Mức hơi dịch nằm ở trung tâm, đáy rộng, vòm thấp, thành ruột mỏng, ít giãn. Hoặc bóng khí đơn độc hoặc hình ảnh hơi nước có vòm thấp hoặc hạ sườn phái hoặc trước cột sống.

Đại tràng: Hình mức hơi nước có thể tích lớn, vòm cao, đáy hẹp, quai ruột giãn đầy hơi, ít dịch, ở vị trí ngoại vi. Thành ruột dày. Tuy nhiên đôi khi khó phân biệt rõ ràng tắc ruột non hay đại tràng một cách rõ ràng.

Tắc ruột do liệt: Giãn toàn bộ ruột non, đại tràng có một ít mức hơi dịch.

Dấu hiệu âm tính trên X quang: Không có hơi tự do trong ổ phúc mạc, không có tràn dịch ổ phúc mạc.

Siêu âm bụng

Trướng hơi, quai ruột dãn, tăng nhu động.

Xét nghiệm

Công thức máu, điện giải  đồ, ure máu, protid máu.

Chẩn đoán thể lâm sàng tắc ruột

Tắc một quai ruột non khép kín

Sẹo thành bụng.

Đau đột ngột, liên tục, khu trú, thỉnh  thoảng đau cơn mạnh lên kết hợp có phản ứng thành bụng, tăng nhiệt độ (50% trường hợp).

Tắc ruột non do u hoặc hẹp ruột

Tiến triển theo thời gian, đôi khi không điển hình hoặc trước đó có cơn đau  Koenirg (khi hỏi bệnh sử). Bụng gồ lên trường hợp tắc ruột không hoàn toàn, quai ruột trướng vừa, lưu thông ruột còn nên có thể có ích cho chỉ định.

Xoắn đại tràng

Xoắn đại tràng trái:

Hay gặp nhất.

Gặp ở lứa tuổi trung niên.

Tiền sử táo bón, đau âm ỉ bụng bên trái.

Bụng trướng mất cân đối.

ASP:  Hình ảnh nòng súng với 4 trụ.

Chụp đại tràng chuẩn bị có hình ảnh mỏ chim ở chỗ nối trực tràng và đại tràng sigma.

Toàn thân tốt.

Xoắn manh tràng

Khởi phát đột ngột.

Nôn.

Bụng trướng lệch.

Đau bụng phản ứng khu trú hố chậu phải.

Xoắn đại tràng ngang và đại tàng góc lách

Tắc ruột ở người già.

Tắc đại tràng (do ung thư)

Hay gặp đại tràng trái và chỗ nối trực tràng và đại tràng sigma.

Có hay không có cơn đau Duval (đau trực tràng).

Trực tràng dãn và đau, bụng trướng dọc khung đại tràng hợp với các mức hơi nước ở ruột non.

Trên phim có cản quang, có hình ảnh tắc đột ngột với hình ảnh hẹp lòng ĐT. (nếu tắc ở đại tràng phải có thể khám phát hiện được khối u).

Nên soi đại tràng: Phát hiện nhanh chóng khối u đại tràng.

Tắc ruột non (tắc ruột do sỏi mật)

Hay gặp ở những phụ nữ có tuổi hay không có tiền sử nhiễm trùng đường mật, có sốt ở giai đoạn khởi bệnh.

Tiến triển tắc ruột tương ứng với sự di chuyển của sỏi.

Hạ sườn phải và vùng trung tâm có thể thấy bóng tròn của viên sỏi.

Tại vùng gan có dấu hiệu đường mật có hơi ở ống mật chủ.

Giả tắc ruột (do u phân đại tràng)

Hay gặp ở người già, tiền sử thường có rối loạn tiêu hoá. Chẩn đoán dựa vào thăm khám  lâm sàng, ASP và chụp khung đại tràng có cản quang. Hội chứng Ogillvie thường diễn ra trong bệnh cảnh của một rối loạn chuyển hoá. Khung đại tràng đầy hơi.

Tiến triển và tiên lượng

Đối với tắc ruột do nghẽn một quai ruột

Tổn thương sẽ không hồi phục sau 6-12 giờ trong nghẽn ruột non và xoắn đại tràng phải với các biểu hiện: Sốc, bụng đề kháng toàn bộ, cần chỉ định can  thiệp phẫu thuật.

Xoắn đại tràng trái thường biểu hiện các triệu chứng giống như một tình trạng nhồi máu mạc treo nhưng chậm  hơn.

Đối với tắc ruột non đơn thuần

Tắc ruột cao với hẹp hồi tràng, giai đoạn đầu thường ít đau, nhưng nôn sớm, mạch nhanh, thở nhanh nông, nhiệt độ tăng, mệt mỏi.

Nếu không can thiệp gì sau 24-36 giờ thì dễ dẫn đến suy thận, suy tuần hoàn, suy hô hấp.

Tiến triển phức tạp hơn: nghẽn ruột (thắt ruột), thủng ruột.

Đối với tắc đại tràng thấp (ung thư hoặc viêm đại tràng sigma)

Tắc hoàn toàn hoặc không.

Kết hợp với một áp xe trong ổ phúc mạc.

Chèn ép van Bauhin: Nếu không có dãn ruột non thì nguy cơ thủng đại tràng rất cao cần phải cẩn trọng khi kích thước đại  tràng lên đến 9cm, trướng  căng dần theo thời gian không biểu hiện triệu chứng tắc, phát hiện rõ bằng nội soi đại tràng.

Tắc ruột có kèm sốt

Có rất nhiều nguyên nhân.

Viêm phúc mạc khu trú: Chỉ định mổ sớm dựa vào triệu chứng lâm sàng và nguyên nhân sẽ được xác định rõ sau khi mở  bụng. Nguyên nhân hay gặp nhất là áp xe ruột thừa.

Túi thừa đại tràng sigma: Biểu hiện các triệu chứng của tắc đại tràng, nhưng đôi khi cũng có những biểu hiện tắc ruột non trong trường hợp viêm quanh đại tràng với các dấu chứng ở vùng hố chậu trái. Chụp khung đại tràng có cản quang là một chỉ định thận trọng và nội soi đại tràng là một chống chỉ định có tính bắt buột.

Bệnh Crohn, bệnh viêm đoạn cuối  hồi tràng.

Tắc ruột sớm sau mổ

Tiền sử có phẫu thuật về bụng, chẩn đoán không đơn giản.

Nếu bệnh nhân còn trung tiện, không sốt thường nghĩ nhiều nhất đến một  bệnh cảnh tắc ruột cơ học (dây chằng hoặc thoát vị nội).

Nếu bí trung tiện thì có thể là một tình trạng tắc ruột do liệt nhưng nếu có tăng  thân nhiệt thì cần phải để ý đến triệu chứng nhiễm trùng bên trong ổ phúc mạc (bục chỉ...), cần đặt ra vấn đề can thiệp phẫu thuật trở lại.

Tắc cao đại tràng (u van Bauhin, xoắn manh tràng)

Nguyên tắc điều trị là cắt bỏ và nối  hồi - đại tràng ngang.

Tắc đại tràng đoạn thấp do ung thư

Làm hậu môn nhân tạo và cắt bỏ đại tràng + u sau này.

Cắt đại tràng toàn bộ hoặc bán phần ngay lập tức. Chẩn đoán này là sự chọn lựa ưu tiên trong trường hợp có thủng đại  tràng hoặc có tình trạng đại tràng dãn lớn trước khi thủng.

Tắc ruột do các biến chứng: áp xe, viêm phúc mạc

Súc  rửa ổ phúc mạc và đặt dẫn lưu.

Chống chỉ định cắt bỏ và nối  ruột cấp cứu.

Lồng ruột

Hút dạ dày.

Điều chỉnh các rối loạn chuyển  hoá.

Trường hợp đau bụng nhiều (hội chứng Ogillvie) thì cần phải giảm áp bằng đường nội soi đại  tràng, nếu thất bại thì can thiệp phẫu thuật (mổ đại tràng giảm áp).

Tắc ruột sau mổ

Tắc sớm: Điều trị nội khoa và phát hiện các biến chứng nhiễm trùng xảy ra bên trong ổ phúc mạc.

Tắc muộn, chậm: Phẫu thuật khi điều trị nội thất bại.

Điều trị tắc ruột cơ học

Chủ yếu là điều trị phẫu thuật. Trước khi phẫu thuật cần chuẩn bị các bước sau:

Đánh giá bilan huyết động

Điện giải đồ.

Sonde tiểu.

Catheter tĩnh mạch trung tâm.

Điện tâm đồ.

X quang phổi.

Chức năng đông máu.

Điều trị nội khoa

Hút dạ dày nhằm giảm áp và hạn chế nguy cơ tràn dịch vào đường khí quản.

Bồi  phụ nước - điện giải: Sự bồi phụ nước - điện giải này kéo dài ít nhất là 6 giờ; trong thời gian đó phải theo dõi mạch, huyết áp động mạch, huyết áp tĩnh mạch trung tâm và lượng nước tiểu.

Kháng sinh phổ rộng.

Nguyên tắc phẫu thuật

Mở bụng đường giữa.

Tìm chỗ  tắc, trình bày đoạn ruột tổn thương.

Xử trí thương tổn ruột nếu có (cắt đoạn ruột tổn thương và nối lại nếu tình trạng ruột cho phép).

Đặt sonde giảm áp bảo vệ miệng nối nếu cần.

Một số trường hợp đặc biệt

Xoắn đại tràng sigma: Trước hết là đặt một sonde trực tràng để tháo xoắn. Nếu thắt lại thì phẫu thuật, cắt bỏ đoạn xoắn; nếu hoại tử và tái lập lưu thông tiêu hoá.

Hội chứng Ogillvie: Hội chứng tắc đại tràng mà không có cản trở cơ học, có thể do tổn thương thần kinh thực vật, hoặc do bản thân hội chứng có tính thứ phát sau một tổn thương ở sau phúc mạc, hoặc do u hoặc không có u.

Bài viết cùng chuyên mục

Lâm sàng và điều trị thời kỳ suy mòn của bệnh bỏng

Nếu tính cả thải Protein qua phân, nước tiểu... mất Protein có thể đạt tới 100-200g/24h. Bỏng sâu mất Protein qua vết bỏng đạt 10mg/cm2/24h.

Công tác thay băng điều trị bỏng

Tuỳ theo tình trạng của vết thương, nếu vết thương diện rộng, nhiều dịch mủ, thay băng hàng ngày, nếu diện hẹp, ít mủ thay băng  hai ngày một lần 2. kỹ thuật thay băng.

Bệnh học bỏng trẻ em

Tính diện tích bỏng dựa theo bảng của Lund và Browder hoặc của Berkow chia bề mặt các phần cơ thể thành các đơn vị diện tích phù hợp với tuổi nhằm giúp chẩn đoán chính xác diện tích bỏng.

Bệnh học bỏng hóa chất

Trong quân đội và trong chiến tranh còn bị bỏng do các nhiên liệu lỏng của tên lửa và các hoá chất quân sự gây loét rộp da. Một số hoá chất khi tác dụng trên da và niêm mạc còn ngấm theo đường mạch máu vào cơ thể và có thể dẫn tới tử vong.

Bệnh học bỏng điện

Bỏng điện thường sâu, tổn thương tại chỗ biểu hiện ở điểm vào và ra của luồng điện, vị trí thường gặp là bàn tay, bàn chân. ở trẻ em có thể bỏng miệng, môi, lưỡi do ngậm vào cực điện.

Dấu hiệu triệu chứng lâm sàng sốc bỏng

Do thoát dịch, huyết tương từ lòng mạch ra khoảng gian bào, Nguyên nhân do tổn thương mao mạch, rối loạn vi tuần hoàn gây giãn mạch, tăng tính thấm

Điều trị sốc do bỏng

Băng ép vừa, theo dõi nếu băng chặt hoặc khi chi thể bị phù nề thì băng sẽ trở thành garo, nên phải nới băng, Nếu bị bỏng hoá chất phải băng bằng chất trung hoà.

Chẩn đoán độ sâu của tổn thương bỏng

Có rất nhiều phương pháp chẩn đoán diện tích, độ sâu của tổn thương bỏng, cùng với sự phát triên khoa học và công nghệ. Trong phạm vi bài giảng, chỉ đề cập những phương pháp cơ bản, dễ áp dụng trong thực tế.

Phẫu thuật điều trị bỏng

Khớp lớn của chi bị nhiễm trùng nặng do bỏng, là nguốn gốc của nhiễm trùng toàn thân, không thể sử dụng phẫu thuật mở bao khớp, dẫn lưu hay cắt đoạn.

Chẩn đoán diện tích bỏng

Sơ sinh thì đầu to, cổ ngắn, ngực bé, bụng to, Trong suốt giai đọan phát triển chi dưới tăng chiều 5 lần, chi trên 4 lần, thân 3 lần, đầu 2 lần

Thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng

Khám vết bỏng hàng ngày là công việc thường xuyên của bác sỹ điều trị bỏng để bổ xung chẩn đoán độ sâu của bỏng và chỉ định thuốc điều trị tại chỗ và toàn thân phù hợp.

Sử dụng các loại da và vật liệu thay thế da trong bỏng

Giảm đau cho người bệnh. Hạn chế mất dịch, máu qua vết thương. Hạn chế nhiễm khuẩn vết bỏng. Kích thích biểu mô hoá ở bỏng nông, kích thích tạo mô hạt ở bỏng sâu.

Xử trí thời kỳ đầu vết thương bỏng

Ngâm vùng bỏng vào nước lạnh (16-200C) trong vòng 20-30 phút. Đặc biệt có hiệu quả trong 20 phút đầu, nếu để sau 30 phút mới ngâm nước lạnh thì không còn giá trị nữa.

Bỏng chiến tranh

Khi cháy tạo ra sức nóng cao, cháy lâu, có chất khi cháy tạo ra nhiều chất độc cho cơ thể, có chất gây bỏng đồng thời là chất độc cho cơ thể.

Hội chứng Dumping trong phẫu thuật dạ dày

Hội chứng Dumping là một nhóm các triệu chứng có thể xảy ra nếu bn có phẫu thuật để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần của dạ dày, hoặc nếu dạ dày của bệnh nhân đã được phẫu thuật nối tắt để giúp giảm cân.

Bệnh học ngoại chấn thương cột sống

Chấn thương cột sống nói chung chiếm khoảng 4-6% so với tất cả các chấn  thương. Trong thực tế khám chấn thương cột sống là khám  tổn thương ở đốt sống, đĩa đệm, dây chằng.

Bệnh học ngoại chấn thương sọ não kín

Chấn thương sọ não đã được nghiên cứu từ lâu. Từ thời Hyppocrat (460-377  trước Công  nguyên) đã có những công  trình nghiên cứu về chảy máu hộp sọ.

Bệnh học ngoại gẫy hai xương cẳng tay

Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết di lệch chồng thì nắn các di lệch sang bên, gập góc còn lại

Bệnh học ngoại gãy thân xương cánh tay

Gãy giữa chỗ bám của cơ ngực lớn và chỗ bám của cơ delta: Đầu trên khép (do cơ ngực lớn kéo), đầu dưới di lệch lên và ra ngoài (do cơ delta kéo).

Bệnh học ngoại khoa bỏng

Bỏng là một chấn thương gặp trong cả thời bình và thời chiến. Trong chiến tranh tỷ lệ bỏng chiếm từ 3-10% tổng số người bị thương. Ở Mỹ một năm theo báo cáo có hơn 2 triệu người bị bỏng, trong đó khoảng 100.000 người phải nhập viện

Bệnh học ngoại gẫy thân xương đùi

Gãy xương đùi được phân loại theo giải phẫu học và vị trí đường gãy: 1/4  trên, 2/4 giữa, 1/4 dưới. Đối với gãy 1/4  trên sát mấu chuyển thì khó phân biệt gãy mấu chuyển.

Bệnh học ngoại gãy trên lồi cầu xương cánh tay

Gãy trên lồi cầu đứng thứ mười trong các loại gãy xương ở trẻ con nói chung, thường tỷ lệ biến chứng cao hơn so với các gãy chi khác, hay gặp di chứng vẹo khuỷu vào trong

Bệnh học ngoại gẫy xương cẳng chân

Gãy xương cẳng chân là các trường hợp gãy thân xương chày từ dưới hai lồi cầu đến trên mắt cá trong, có hoặc không kèm gãy xương mác từ cổ tới trên mắt cá ngoài.

Bệnh học ngoại gẫy cổ xương đùi

Gãy cổ xương  đùi là các trường hợp gãy xương mà đường gãy là ở giữa chỏm và khối mấu chuyển. Thường gặp đối với người già, cho dù là một chấn thương nhẹ (như té đập mông). Rất hiếm gặp ở người trẻ và trẻ em.

Bệnh học ngoại u não

U não là một từ ngữ được các thầy thuốc lâm sàng gọi tên có tính cách quy  ước để chỉ các u trong sọ vì thực sự u trong mô não chỉ chiếm trên dưới 50% u trong sọ.

Bệnh học ngoại u xương

Ung thư xương là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào của xương, trong đó hay gặp nhất là ung thư liên kết tạo xương và tạo sụn. Đây là loại ung thư thường gặp ở thiếu niên và thanh niên trẻ.

Bệnh học ngoại vết thương sọ não hở

Vết thương sọ não hở là loại vết thương gặp cả trong chiến tranh và trong thời bình. Nhưng trong chiến tranh chiếm tỷ  lệ cao hơn (khoảng từ 7-10%  các loại vết thương do chiến tranh).

Bệnh học ngoại viêm xương

Viêm xương có thể tự nhiên, nhưng chấn thương đóng vai trò nào đó của sự khu trú tắc mạch xương trên một cơ quan bị nhiễm khuẩn.

Bệnh học ngoại lao xương

Lao xương giống viêm xương là hay gây tổn thương ở người trẻ, nhưng khác viêm xương, tổn thương của lao thường bắt đầu ở xương xốp sau đó lan ra xung quanh.

Bệnh học ngoại xơ vữa động mạch

Tổn thương khu trú ở lớp nội mạc, lớp nội mạc dày lên vừa phải. Các tế bào đặc trưng có chứa các tổ chức mỡ (tế bào bọt). Lớp áo giữa và áo ngoài bình thường.

Bệnh học ngoại viêm màng ngoài tim co thắt

Viêm màng ngoài tim co thắt có tràn dịch (1/3 trường hợp): Bệnh nhân trẻ, triệu chứng xuất hiện mới đây, tiền sử viêm màng ngoài tim do nhiễm khuẩn cấp.

Bệnh học ngoại ung thư phổi

Ung thư phổi là bệnh lý rất hay gặp trong phẫu thuật lồng ngực, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong những ung thư nói chung. Tỷ lệ bệnh ngày  càng tăng do ngày càng có nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư.

Bệnh học ngoại u trung thất

U trung thất là một khối u có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của trung thất. Bao  gồm khối u nguyên phát, thứ phát; lành ác. Bệnh lý hay gặp nhất là u tuyến ức, u thần kinh, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới.

Bệnh học ngoại tắc động mạch cấp tính ở chi

Mảng xơ vữa bị loét: Các mảng xơ vữa này sau đó bị cục máu đông phủ lên trên, sự di chuyển của các cục huyết khối có thể tạo ra từng đợt gây thuyên tắc.

Bệnh học ngoại phình động mạch ngoại biên

Phình động mạch ngoại biên thường ít hơn phình động mạch chủ. Có nhiều nguyên nhân gây phình động mạch ngoại biên, trong đó nguyên nhân do xơ vữa động mạch thường gặp nhất.

Bệnh học ngoại thông động tĩnh mạch

Thông động tĩnh mạch là có sự lưu thông bất thường giữa động mạch và tĩnh mạch. Nguyên nhân phần lớn do chấn thương mạch máu. Vấn đề chẩn đoán cần phát hiện sớm và có thái độ xử trí kịp thời để tránh những biến chứng về tim mạch.

Bệnh học ngoại chấn thương mạch máu ngoại biên

Hậu quả lâm sàng của chấn thương động mạch không hằng định, nhưng khi có hậu quả trên lâm sàng là một tiêu chuẩn nặng của chấn thương động mạch.

Bệnh học ngoại gẫy xương hở

Gãy xương hở do nhiều nguyên nhân và chiếm hàng đầu là tai nạn lưu thông do các loại xe mô tô và ô tô. Trong thời bình tỷ lệ gãy xương hở chiếm khoảng 8-10% các tổn thương cơ quan vận động.

Bệnh học ngoại trật khớp háng

Ở người lớn trật khớp háng do chấn thương mạnh xảy ra do một lực tác động gián tiếp vào đầu dưới xương đùi, và vùng gối khi đùi gấp, xoay trong và khép, khớp gối ở tư thế gấp.

Bệnh học ngoại trật khớp vai

Trật khớp vai là loại trật khớp phổ biến nhất trong các loại trật khớp và thường gặp ở người lớn trẻ khỏe chiếm khoảng 50 - 60 % tổng số trật khớp. Nguyên nhân và cơ chế gây trật khớp thường thấy nhất do ngã chống bàn tay hoặc chống khuỷu trong tư thế tay dạng, đưa ra sau, và xoay ngoài.

Bệnh học ngoại trật khớp khuỷu

Chỉ gặp trật khớp khuỷu ra trước khi có gẫy mỏm khuỷu, các dây chằng bị đứt các cơ nhị đầu, cơ bám vào mỏm trên lồi cầu bị đụng giập hoặc rách.

Bệnh học ngoại vết thương ngực

Các rối loạn hô hấp tuần hoàn trong vết thương ngực hở do hậu quả hô  hấp  đảo ngược và lắc lư trung thất dẫn đến thiếu O2 trầm trọng, tình trạng toàn thân của bệnh nhân thay đổi nhanh chóng.

Bệnh học ngoại chấn thương ngực kín

Nguyên nhân gây chấn thương ngực kín: Do tai nạn giao thông chiếm 70%  trường hợp và 25% trường hợp chết tại chỗ.  Tỷ lệ tử vong thứ phát do 2 rối loạn: Suy hô hấp và suy tuần hoàn.

Bệnh học ngoại ung thư bàng quang

U bàng quang là loại u thường gặp nhất trong các loại u đường tiết niệu. Theo Hội ung thư Mỹ, thì năm 1994 có khoảng 51.200 bệnh nhân mới, và đã  có khoảng 10.600 bệnh nhân tử vong.

Bệnh học ngoại ung thư thận

Ung thư thận chiếm 90% các loại u ác tính nguyên phát ở thận. Bệnh thường xuất hiện ở người lớn trên 40 tuổi, với tỉ lệ nam gấp 2 lần so với nữ giới. Ung  thư thận chiếm 1-2% toàn bộ các loại ung thư ở người lớn.

Bệnh học ngoại u xơ tiền liệt tuyến

U xơ tiền liệt tuyến là một loại u lành tính thường gặp trong bệnh lý của hệ tiết niệu và thường xuất hiện ở nam giới lớn tuổi. Mặc dù có thể thấy u xơ tiền liệt tuyến xuất hiện ở người trẻ < 30 tuổi, nhưng chủ yếu là ở nam giới trên 60 tuổi.

Bệnh học ngoại chấn thương niệu đạo

Khi dương vật mềm, niệu đạo dài khoảng 16cm, trong đó, đoạn tiền liệt tuyến dài khoảng 2,5-3cm, đoạn màng khoảng 1,2cm và đoạn xốp khoảng 12cm.

Bệnh học ngoại chấn thương thận

Chấn thương thận bao gồm tất cả các thương tổn của nhu mô thận, đường bài xuất  nước tiểu trên và cuống thận. Giới nam thường bị hơn nữ, chiếm 75-80%, do đặc trưng về nguyên nhân của loại chấn thương này.

Bệnh học ngoại nhiễm khuẩn tiết niệu

Nhiễm khuẩn tiết niệu không đặc hiệu (Non- specific infection) là loại nhiễm khuẩn thường gặp của đường tiết niệu do các loại trực khuẩn gram (-) hoặc cầu khuẩn gram (+) gây nên.

Bệnh học ngoại dị dạng hậu môn trực tràng

Từ xưa người ta đã biết đến dị tật hậu môn - trực tràng dưới một tên thông dụng là "không có hậu môn”.  Mãi cho đến thế kỷ thứ VII Paulus là người đầu tiên đã áp dụng một phẫu thuật khoan thăm dò từ tầng sinh môn.

Bệnh học ngoại ống phúc tinh mạc

Sự tồn tại của ống phúc tinh mạc là một loại bệnh lý rất thường gặp ở trẻ em  mà bệnh cảnh lâm sàng thường biểu hiện bằng hai hình thái: Hình thái cấp tính đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật như thoát vị bẹn.

Bệnh học ngoại dị dạng bẩm sinh vùng rốn

Thoát vị cuống rốn là một dị dạng bẩm sinh trong đó một số tạng bụng trồi ra ngoài ổ bụng qua lỗ hổng của vành đai rốn tạo thành một khối phình được bọc kín bởi lớp phúc mạc nguyên thuỷ và lớp màng ối ở vùng rốn.

Bệnh học ngoại sỏi hệ tiết niệu

Sỏi hệ tiết niệu bao gồm sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và niệu đạo, sỏi thận, niệu quản và bàng quang hay gặp hơn: Sỏi thận là một bệnh phổ biến trên thế giới. Việt Nam nằm trong “vành đai” mắc sỏi thận khá cao.

Bệnh học ngoại phình đại tràng bẩm sinh (Hirschsprung)

Bệnh Hirschsprung có thể có biểu hiện lâm sàng rất sớm ở trẻ sơ sinh bằng bệnh cảnh tắc ruột cấp tính dễ đưa đến tử vong nếu không can thiệp kịp thời hoặc có biểu hiện bán cấp tính và mạn tính ở trẻ nhũ nhi.

Bệnh học ngoại lồng ruột cấp ở trẻ còn bú

Lồng ruột thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn ở bé gái (2/1) trong độ tuổi bú  mẹ cao nhất là từ 4 - 8 tháng. Tỷ lệ gặp thấp hơn sau 1 - 2 tuổi và hiếm gặp ở trẻ lớn.

Bệnh học ngoại tắc ruột sơ sinh

Tắc ruột sơ sinh là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp trong lĩnh vực ngoại nhi. Bệnh thường xảy ra trong 15 ngày đầu của đời sống. Bệnh liên quan mật thiết đến các ngành sản khoa và nhi khoa.

Bệnh học ngoại teo đướng mật bẩm sinh

Teo đường mật bẩm sinh rất hiếm gặp. Tại Nhật Bản và các nước châu á, tỷ  lệ bệnh khoảng 1/10.000 trẻ sơ sinh sống. Tỷ lệ nữ/nam = 1:0,64. Vấn đề chẩn đoán và điều trị rất phức tạp.

Bệnh học ngoại khoa phi đại hẹp môn vị

Hẹp phì đại môn vị là một bệnh ngoại khoa thường gặp ở giữa độ tuổi sơ sinh và bú mẹ (3 tuần-6 tháng). Bệnh có biểu hiện lâm sàng bằng hội chứng nôn  do hẹp lòng môn vị bởi sự phì đại thái quá của lớp cơ vùng môn vị.

Bệnh học ngoại khoa thoát vị cơ hoành bẩm sinh

Thoát vị cơ hoành là tình trạng các tạng trong ổ phúc mạc đi vào trong lồng  ngực qua một lỗ khiếm khuyết của cơ hoành. Tần suất mắc bệnh, theo phần lớn tác giả, trong khoảng 1/2.000-1/5.000 trẻ sơ sinh sống.

Bệnh học ngoại khoa teo thực quản

Bệnh teo thực quản là hậu quả của rối loạn trong quá trình tạo phôi giữa tuần thứ 4 và tuần thứ 6, điều này giải thích cho hiện tượng teo thực quản thường kèm theo nhiều dị tật phối hợp khác.

Bệnh học ngoại khoa ung thư trực tràng

Ung thư trực tràng là một bệnh thường gặp ở Việt Nam cũng như trên thế  giới. Khoảng 8000 trường hợp ung thư trực tràng ở Pháp mỗi   năm.  Tỷ  lệ nam/nữ là 1,5.

Bệnh học ngoại khoa ung thư đại tràng

Ung thư đại  tràng là loại ung thư hay gặp đứng  hàng  thứ hai trong các  loại ung thư đường  tiêu hoá  và  là  một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong  do ung thư nói  chung.

Bệnh học ngoại khoa thoát vị đùi

Khi lỗ thoát vị đùi ở vị trí này phải chú ý: Phía ngoài cổ túi có tĩnh mạch đùi và phía trên cổ túi có động mạch thượng vị và nhánh nối động mạch thượng vị với mạch bịt.

Bệnh học ngoại khoa thoát vị bẹn

Thoát vị là tình trạng các tạng bên trong ổ phúc mạc đi ra ngoài ổ phúc mạc trong một túi thừa phúc mạc gọi là “túi thoát vị”, qua các điểm yếu tự nhiên của thành bụng. Các điểm yếu này có thể là bẩm sinh hay mắc phải.

Bệnh học ngoại khoa viêm ruột thừa cấp

Viêm ruột thừa cấp là một trong những bệnh lý cấp cứu ngoại khoa hay gặp nhất. Tần suất viêm ruột thừa cấp song hành với tần suất của quá trình phát triển của mô bạch huyết, với tỷ lệ cao nhất ở giai đoạn đầu của thập niên.

Bệnh học ngoại khoa vết thương thấu bụng

Thực tế khi có vết thương trực tiếp vào thành bụng mà không xuất hiện hội chứng mất máu cấp tính hoặc hội chứng viêm phúc mạc, chúng ta chỉ cần mở rộng thăm dò tổn thương thành bụng.

Bệnh học ngoại khoa chấn thương bụng kín

Chấn thương bụng kín hay gọi là chạm thương bụng bao gồm cả những tổn  thương về bụng, tổn thương có thể chỉ ở ngoài thành bụng nhưng có thể tổn thương các tạng đặc trong ổ bụng (như gan, lách, tụy...).

Bệnh học ngoại khoa xuất huyết tiêu hóa

Xuất huyết tiêu hoá được định nghĩa là sự đào thải qua đường miệng và hay là qua đường đường hậu môn một số lượng máu từ các thương tổn của  đường tiêu hoá.

Bệnh học ngoại khoa ung thư gan

Ung thư gan nguyên phát ở các nước Âu - Mỹ rất hiếm gặp chiếm khoảng 1-2% các loại ung thư. Trong khi châu á, Phi rất hay gặp. Đây là loại ung thư tiến triển rất nhanh và điều trị đang còn gặp nhiều khó khăn.

Bệnh học ngoại khoa áp xe gan amip

Áp xe gan là loại bệnh đã được nghiên cứu từ hơn một thế kỷ nay. Triệu chứng thường điển hình với sốt, gan to, đau. Áp xe gan do amíp thường chỉ có một ổ.

Bệnh học ngoại khoa sỏi ống mật chủ

Khi tắc mật, dịch mật không xuống tá tràng mà ứ đọng trong gan. Sắc tố mật, muối mật vào máu, bilirubin máu tăng cao, do sắc tố mật có màu vàng nên da, giác mạc mắt có màu vàng.

Bệnh học ngoại khoa ung thư dạ dày

Ung  thư dạ dày là một trong những ung thư ống tiêu hóa thường gặp, trong thực tế tiên lượng vẫn không thay đổi nhiều từ nhiều năm nay. Thời gian sống đến 5 năm của  ung thư dạ dày khoảng 15% và thời gian sống 5 năm sau phẫu thuật triệt căn khoảng 30%. 

Bệnh học ngoại khoa hẹp môn vị

Loét dạ dày-tá tràng là nguyên nhân hay gặp nhất. Tất cả mọi vị trí của ổ loét ở dạ dày hay tá tràng, ở gần hay xa môn vị, đều có thể gây nên hẹp môn vị tạm thời hay vĩnh viễn.

Bệnh học ngoại khoa thủng dạ dày tá tràng

Thủng ổ loét dạ dày - tá tràng là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Chẩn đoán thường dễ vì trong đa số trường hợp các  triệu chứng khá điển hình, rõ rệt.

Bệnh học ngoại khoa ung thư thực quản

Ung thư thể thâm nhiễm chủ yếu phát triển ở lớp niêm mạc xâm lấn vào lớp dưới niêm mạc rồi vào lớp cơ, phát triển theo hình vòng nhẫn, do đó làm ống thực quản bị chít hẹp.