- Trang chủ
 - Sách y học
 - Thực hành chẩn đoán và điều trị
 - Thực hành chẩn đoán và điều trị rụng tóc
 
Thực hành chẩn đoán và điều trị rụng tóc
Do yếu tố di truyền, thường là hiện tượng rụng tóc cả vùng gây hói, khởi đầu từ hai bên thái dương, vùng trán rồi lan rộng dần. Thường gặp ở nam giới nhiều hơn nữ giới.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Rụng tóc không phải là một bệnh, mà là biểu hiện của nhiều bệnh. Hay nói khác đi, có rất nhiều nguyên nhân gây rụng tóc. Khi có dấu hiệu rụng tóc kéo dài, việc chẩn đoán cần phải chú ý đến nhiều khía cạnh khác nhau mới có thể phát hiện được nguyên nhân thật sự.
Nguyên nhân
Cấu trúc của mỗi sợi tóc luôn có một phần chất nhờn màu trắng bao quanh chân tóc. Đây là một hỗn hợp chất béo và chất đạm có chức năng gắn chặt sợi tóc vào da đầu. Chất keo gắn này càng dày thì tóc càng được gắn chặt. Ngược lại, nếu vì một lý do nào đó mà lớp keo này bị khô, mỏng đi thì tóc sẽ rất dễ rụng. Một số nguyên nhân thường dẫn đến hiện tượng rụng tóc là:
Các bệnh da đầu, nhất là nhiễm nấm.
Chịu đựng sự căng thẳng kéo dài hay có những thay đổi quan trọng như phẫu thuật, bệnh kéo dài, phụ nữ sau khi sinh con...
Nhiễm giun đũa.
Do yếu tố di truyền, thường là hiện tượng rụng tóc cả vùng gây hói, khởi đầu từ hai bên thái dương, vùng trán rồi lan rộng dần. Thường gặp ở nam giới nhiều hơn nữ giới.
Dị ứng do tiếp xúc với hóa chất, mỹ phẩm, thuốc ngoài da...
Lạm dụng thuốc kháng sinh hay các thuốc có chứa hormon.
Suy dinh dưỡng, thiếu máu...
Rối loạn hormon do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như bệnh tiểu đường, bệnh tuyến giáp, bệnh tuyến thượng thận... hoặc nam giới sau tuổi 50, nữ giới sau khi mãn kinh.
Tác dụng phụ của thuốc trị ung thư hay các liệu pháp khác, chẳng hạn như xạ trị...
Tổn thương da đầu do bị phỏng hoặc do dùng máy sấy tóc, thuốc nhuộm tóc, thuốc uốn tóc... một cách không thích hợp. Cũng có thể do tóc bị kéo mạnh quá mức.
Tình trạng rụng tóc tạm thời ở từng vùng nhỏ, tạo thành các mảng hói ở vùng da trán, hoàn toàn không rõ nguyên nhân, thường tự khỏi trong vòng vài tháng.
Chẩn đoán
Cần chú ý rằng rụng tóc là một hiện tượng bình thường. Trong thực tế, mỗi sợi tóc của chúng ta có thể tồn tại trong khoảng từ 8 tháng cho đến 5 năm. Trung bình, do có những sợi tóc đã già đi nên một người khỏe mạnh có thể rụng mất từ 40 đến 120 sợi tóc mỗi ngày. Đây là điều hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, song song theo đó cần có một lượng tóc mới được sản sinh để bù đắp lại số tóc rụng đi, đảm bảo mái tóc luôn giữ được bề dày thông thường của nó. Rụng tóc cần quan tâm điều trị khi lượng tóc rụng đi quá nhiều so với lượng tóc sinh ra, biểu hiện bằng mái tóc ngày càng thưa hơn hoặc thậm chí có những mảng hói bắt đầu xuất hiện.
Chẩn đoán nguyên nhân là quan trọng nhất trong điều trị rụng tóc. Vì thế cần chú ý đến các triệu chứng kèm theo với rụng tóc để có thể xác định nguyên nhân gây rụng tóc. Trong hầu hết các trường hợp, yếu tố dinh dưỡng luôn giữ một vai trò nhất định.
Điều trị
Điều trị nguyên nhân là chủ yếu. Khi nguyên nhân được điều trị, hiện tượng rụng tóc sẽ tự chấm dứt.
Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng có thể xác định được nguyên nhân rõ ràng. Do đó, trong một số trường hợp vẫn phải chấp nhận điều trị triệu chứng, nghĩa là cố gắng làm giảm mức độ rụng tóc và tăng khả năng sản sinh tóc mới.
Một số trường hợp hói tóc do di truyền có thể dùng minoxidil để điều trị.
Hướng dẫn bệnh nhân một chế độ ăn thích hợp giàu dinh dưỡng có thể giúp giảm mạnh sự rụng tóc. Chế độ ăn cho bệnh nhân rụng tóc cần có nhiều các vitamin nhóm B, vitamin A, C và E, cùng với các khoáng chất như lưu huỳnh, đồng, molybden, silic, kẽm, selen... Hạn chế nguồn chất đạm và chất béo từ thịt động vật, thay thế bằng đạm thực vật như đậu xanh, đậu nành... và sử dụng các loại dầu thực vật. Tránh các thức ăn ngọt như bánh, kẹo... và hạn chế tối đa rượu, bia, thuốc lá...
Bài viết cùng chuyên mục
Thực hành chẩn đoán và điều trị không đạt cực khoái
Khoảng 30 – 50% phụ nữ có một quãng thời gian nhất định nào đó trong đời khi mà việc giao hợp rất khó đạt đến cực khoái.
Kiểm tra tiêm chủng cho trẻ em
Một số liều tiêm chủng gồm 2 mũi tiêm hoặc nhiều hơn, phải được tiêm đủ liều mới có thể phát huy tác dụng bảo vệ trẻ chống lại căn bệnh đó.
Thực hành chẩn đoán và điều trị chắp mắt
Nếu có nhiễm trùng cấp tính, cho dùng thuốc kháng sinh nhỏ mắt như chloramphenicol và hướng dẫn bệnh nhân xông hơi nóng vào mắt thường xuyên.
Thực hành chẩn đoán và điều trị ngứa hậu môn
Chẩn đoán xác định nhiễm giun kim khi bệnh nhân quan sát thấy giun trong phân. Cũng có thể quan sát thấy trứng giun ở vùng da quanh hậu môn nếu sử dụng kính hiển vi.
Thực hành chẩn đoán và điều trị mụn cóc
Liệu pháp lạnh với nitơ lỏng có thể được dùng cho những mụn cóc không đáp ứng với thuốc bôi. Phương pháp điều trị này gây đau nhiều nên không hợp với trẻ em.
Thực hành chẩn đoán và điều trị chấy
Thuốc gội đầu có chứa malathion hay carbaryl đều có hiệu quả tốt. Bôi thuốc lên đầu, để yên khoảng 12 giờ rồi gội sạch. Có thể dùng lược răng dày để chải sạch xác chấy và trứng sau khi gội.
Thực hành chẩn đoán và điều trị ợ nóng khi mang thai
Hiện tượng này xảy ra một cách hoàn toàn tự nhiên khi mang thai, do sự lớn lên của thai gây chèn ép thể tích vùng bụng, làm cho cơ vòng giữa thực quản và dạ dày không thể đóng kín lại.
Thực hành chẩn đoán và điều trị bệnh sởi
Trẻ em dưới 8 tháng tuổi rất hiếm khi mắc bệnh sởi, nhờ có kháng thể nhận được từ sữa mẹ. Vì thế, nuôi con bằng sữa mẹ cũng là một cách bảo vệ trẻ chống lại bệnh này.
Thực hành nuôi con bằng sữa bình
Khi trẻ đã làm quen với một loại sữa được chọn, nên hạn chế thay đổi nếu không có lý do thực sự cần thiết.
Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ
Để duy trì nguồn sữa đầy đủ cho trẻ, người mẹ cần một chế độ dinh dưỡng cân đối và phải uống thật nhiều nước.
Thực hành chẩn đoán và điều trị đái dầm
Không nên rầy la hoặc làm cho trẻ cảm thấy xấu hổ vì đái dầm. Điều này tạo ra tâm lý mặc cảm, lo sợ và càng làm cho trẻ mất tự tin, càng làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn.
Thực hành chẩn đoán và điều trị lạc nội mạc tử cung
Những mảnh nội mạc tử cung lạc chỗ vẫn đáp ứng với chu kỳ kinh nguyệt giống như nội mạc ở trong tử cung, nghĩa là vẫn chảy máu theo chu kỳ kinh nguyệt.
Thực hành chẩn đoán và điều trị bệnh chóng mặt
Viêm mê đạo do các bệnh nhiễm trùng không được điều trị triệt để sẽ có nhiều nguy cơ tái phát. Do đó, cần điều trị tốt các bệnh nhiễm trùng, viêm mê đạo sẽ tự khỏi.
Thực hành chẩn đoán và điều trị mất ngủ
Khích lệ trẻ những lần đi ngủ đúng giờ, chẳng hạn như khen thưởng, nhưng đừng bao giờ trừng phạt trẻ vì không ngủ.
Thuốc tránh thai dạng tiêm và cấy dưới da
Loại thuốc thường dùng là Dépo-Provéra, mỗi lần tiêm một mũi 3 ml (có chứa 150mg médroxyprogestérone acetate, tiêm bắp thịt sâu, không được tiêm tĩnh mạch), 3 tháng tiêm một lần.
Thực hành chẩn đoán và điều trị cúm
Virus gây bệnh cúm rất đa dạng. Nhìn chung, hiện các loại virus gây bệnh cúm được phân thành 3 dòng chính gọi là virus cúm A, virus cúm B và virus cúm C.
Thực hành chăm sóc trẻ ỉa đùn
Những trường hợp khó điều trị có thể đòi hỏi dùng xi-rô senna thời gian dài với liều giảm dần để tăng phản xạ dạ dày-ruột.
Thực hành chẩn đoán và điều trị viêm thực quản hồi lưu
Đau càng tăng thêm khi nằm xuống hay cúi người về phía trước. Đứng thẳng người lên có thể làm giảm bớt cơn đau, chủ yếu là nhờ tác dụng của trọng lực.
Thực hành chẩn đoán và điều trị thủy đậu
Virus gây bệnh lây truyền qua môi trường không khí, do người bệnh đưa vào khi ho, hắt hơi... Tiếp xúc trực tiếp như cầm nắm các vật dụng có virus bám vào cũng có thể bị lây bệnh.
Tránh thai bằng xuất tinh ngoài âm đạo
Do khả năng sống sót của tinh trùng khi vào được cơ thể người phụ nữ có thể kéo dài từ 4 đến 6 ngày, nên những sơ sót này tuy có tỷ lệ rất thấp nhưng vẫn có thể dẫn đến thụ thai.
Thực hành chẩn đoán và điều trị động kinh
Chẩn đoán xác định các cơn động kinh thường khó khăn do rất ít khi khai thác được nhiều thông tin từ bản thân bệnh nhân.
Thực hành chẩn đoán và điều trị loét đường tiêu hóa
Loét do vi khuẩn H. pylori: là tất cả những trường hợp loét đường tiêu hóa mà xét nghiệm cho thấy có sự hiện diện của loại vi khuẩn này.
Thực hành chẩn đoán và điều trị ban đỏ nhiễm khuẩn
Hai gò má nổi lên những vùng đỏ, tương phản với một vùng tái nhợt xung quanh miệng. Vì thế, bệnh này còn được gọi là bệnh đỏ má (slapped cheek disease).
Thực hành chẩn đoán và điều trị viêm gan B
Thời gian ủ bệnh thường kéo dài từ 1 – 4 tháng hoặc lâu hơn, tùy thuộc vào số lượng virus bị nhiễm vào cơ thể. Nói chung, số lượng virus càng lớn thì thời gian ủ bệnh càng ngắn.
Kiểm tra sức khỏe tổng quát trẻ từ 6 đến 8 tuần tuổi
Tìm các dấu hiệu bất thường ở mắt, như chuyển động khác thường của các đồng tử, lác mắt hay không có khả năng định thị.
