- Trang chủ
- Sách y học
- Sách điện tâm đồ
- Hình ảnh tăng gánh nhĩ trái, nhĩ phải và hai nhĩ trên điện tâm đồ
Hình ảnh tăng gánh nhĩ trái, nhĩ phải và hai nhĩ trên điện tâm đồ
Tăng gánh hai nhĩ, hay gặp nhất trong bệnh van hai lá, ba lá, bao gồm các triệu chứng của dày nhĩ trái, và dày nhĩ phải phối hợp thành rất nhiều hình thái.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tăng gánh nhĩ trái
Tăng gánh nhĩ trái hay gặp trong
Hẹp hai lá (P hai lá).
Hở hai lá.
Hở động mạch chủ.
Tăng huyết áp.
Tăng gánh nhĩ trái gồm các triệu chứng sau đây:
P (tiêu biểu) rộng ra > 0,12s, có khi tới 0,16s. Đây là triệu chứng quan trọng nhất.
P 2 đỉnh hay có móc ở đỉnh.
Ở D3, aVF, V1, P hai pha +/– hay âm hẳn. Riêng ở V1, dạng hai pha +/– có pha âm rất rộng và có móc.
Trục ÂP lệch sang trái, giữa 400 và 00.
Tăng gánh nhĩ phải
Hay gặp nhất trong tâm phế mạn (P phế) rồi đến các bệnh tim bẩm sinh: Bệnh Fallot, hẹp động mạch phổi, thông liên nhĩ và hẹp hay hở ba lá.
P cao: Đây là triệu chứng quan trọng nhất, P cao, nhọn, đối xứng, P tiêu biểu (thường là P2) vượt quá 3mm, có khi tới 100mm.
Ở V1, P cũng cao, thường vượt quá 2,5mm nhưng có thể hai pha +/– hay âm hẳn. Dù sao, pha âm ở đây cũng rất hẹp còn pha dương thì rộng hơn nhiều.
Trục ÂP hơi lêch sang phải, giữa +600 và 900.
Phức bộ QRS ở V1 có dạng QR (dấu hiệu Sodi Pallares).
Tăng gánh hai nhĩ
Hay gặp nhất trong bệnh van hai lá, ba lá, bao gồm các triệu chứng của dày nhĩ trái và dày nhĩ phải phối hợp thành rất nhiều hình thái, thí dụ:
P tiêu biểu vừa rộng (> 0,12s) vừa cao (> 3mm) và có hai đỉnh hay có móc.
Ở V1, P hai pha +/– hay âm sâu. Cả hai pha + và – đều rộng và dày cộm.
Phức bộ thất bao giờ cũng có dấu dày thất phối hợp vào.
Bài viết cùng chuyên mục
Sóng U bình thường và bệnh lý trên điện tâm đồ
U âm ở D1 và có thể cả V5, V6 có giá trị bệnh lý cao, gặp trong dày thất trái với bệnh động mạch chủ hay tăng huyết áp, bệnh mạch vành.
Đoạn ST bình thường và bệnh lý trên điện tâm đồ
Nói chung, ST không uốn cong mà đi thẳng và tiếp vào T một cách mềm mại, cũng không bao giờ đi dốc xuống mà chỉ đi ngang hoặc hơi dốc lên.
Trục điện tim bình thường và bệnh lý
Tăng gánh thất trái làm thất trái dày ra, kéo véc tơ khử cực về phía trái, đồng thời nó cũng giãn ra và dựa vào các cơ quan mềm phía sau mà đẩy tâm thất.
Sóng P bình thường và bệnh lý trên điện tâm đồ
Thời gian tức là bề rộng của P thường cũng tiêu biểu ở D2, P tiêu biểu có bề rộng trung bình là 0,08s, tối đa 0,11s, tối thiểu 0,05s.
Nhĩ đồ và thất đồ trên điện tâm đồ
Khi nhĩ tái cực, nó phát ra một dòng điện ghi lên máy bằng một sóng âm nhỏ gọi là sóng Ta (auricular T), nhưng ngay lúc này cũng xuất hiện khử cực thất (QRS với điện thế mạnh hơn nhiều nên trên điện tâm đồ thông thường ta không nhìn thấy được sóng Ta.
Máy điện tâm đồ hoạt động không đúng
Nếu ta ghi điện tâm đồ trong điều kiện máy hoạt động đệm cản lớn, các sóng Q, R, S sẽ nhỏ đi, có đỉnh tày hơn, các sóng nhỏ biến mất và các đoạn, khúc bị chênh.
Hình ảnh bệnh động mạch vành trên điện tâm đồ
ST chênh xuống, thẳng đuỗn, đây là tổn thương dưới nội tâm mạc, thường có trong chứng nhồi máu dưới nội tâm mạc hay chứng đau thắt ngực.
Hình ảnh nhịp xoang trên điện tâm đồ
Không đều, ta gọi là loạn nhịp xoang, thường gặp ở trẻ em (do hô hấp), loạn trương lực thần kinh thực vật. Đặc điểm chung của các loại nhịp xoang là tần số và nhịp điệu của chúng bị biến đổi khi gắng sức, cảm xúc, ấn mắt, hô hấp, tiêm atropin.
Ghi điện tâm đồ sai kỹ thuật
Dán nhầm thứ tự các chuyển đạo, hoặc dán nhầm điện tâm đồ của người này sang người khác, khi dán băng điện tâm đồ vào tờ hồ sơ của từng bệnh nhân.
Hình ảnh nhịp bộ nối, thoát bộ nối và phân ly nhĩ thất
P và QRS không có liên hệ gì với nhau, P lúc thì đứng trước, lúc thì đứng sau, lúc thì chồng lên QRS, nhưng các khoảng PP vẫn bằng nhau, cả các khoảng RR cũng thế.
Cách đặt các chuyển đạo điện tâm đồ
Các trục chuyển đạo RL, RF, và LF của D1, D2, D3 lập thành 3 cạnh của một hình tam giác, có thể coi như tam giác đều với mỗi góc bằng 600 gọi là tam giác Einthoven.
Phương pháp ghi và định chuẩn điện tâm đồ
Người ta in sẵn lên giấy những đường kẻ ngang cách nhau 1mm, trước khi cho dòng điện tim chạy vào máy, người ta phóng vào một dòng điện 1mv và vặn nút điều chỉnh.
Truyền đạt nhĩ thất trên điện tâm đồ
Người ta không đo thời gian của T, vì nó rất thay đổi, tùy từng người, hơn nữa, chỗ khởi điểm của nó tiếp với ST rất thoai thoải, khó đo.
Điện tâm đồ chẩn đoán các rối loạn nhịp tim
Bình thường, nút xoang giữ vai trò chủ nhịp vì nó phát xung nhanh nhất: 70 mỗi phút, các ổ khác, càng ở thấp càng phát xung chậm hơn.
Hình ảnh rung thất, rung nhĩ trên điện tâm đồ
Rung nhĩ cũng giống như rung thất, là tình trạng nhĩ không bóp nữa mà từng thớ của nó rung lên, do tác động của những xung động rất nhanh, và rất không đều.
Hình ảnh cuồng động nhĩ trên điện tâm đồ
Các sóng P’ đó có tần số khoảng 300 mỗi phút, biên độ lớn hơn sóng P bình thường, nhất là ở D2, D3 và aVF.
Hình ảnh nhịp nhanh kịch phát trên thất, thất
QRS giãn rộng, trát đậm, có móc, mỗi phức bộ có thể có một vài chi tiết khác nhau, ST và T trái chiều với QRS.
Quá trình điện học và hình thành điện tâm đồ
Khi tim ở trạng thái nghỉ, không có dòng điện tim nào qua máy, và bút sẽ chỉ ghi lên giấy một đường thẳng ngang, ta gọi đó là đường đồng điện.
Hình ảnh cơn đau thắt ngực, nghiệm pháp gắng sức trên điện tâm đồ
Hình ảnh thiếu máu, tổn thương khu trú, ở một vài chuyển đạo nào đó, và biến đổi nhanh chóng, ví dụ từ hình thái dưới nội tâm mạc sang hình thái dưới thượng tâm mạc.
Hình ảnh nhồi máu cơ tim: giai đoạn, các loại trên điện tâm đồ
Thường thường, vùng cơ tim bị nhồi máu có một vùng đứng giữa bị hoại tử, rồi đến một vùng tổn thương bao quanh nó và ngoài cùng là một vùng thiếu máu bao quanh vùng tổn thương.
Tư thế điện học của tim bình thường và bệnh lý
Khi tim nằm, trục trái quá mạnh, với R1 cao, S2, S3 sâu (đỉnh của R1, S2, S3 chiếu đúng vào nhau khi ghi đồng thời) thì thường là dày và tăng gánh thất trái.
Hình ảnh tăng gánh thất trái, thất phải và hai thất trên điện tâm đồ
Ở nhiều ca, tất cả các chuyển đạo đều có STT trái hướng với QRS, thí dụ ở V5, V6 có QRS dương, ta thấy ST chênh xuống và T âm, còn ở V1, V2 thì ngược lại.
Phức bộ QRS bình thường và bệnh lý trên điện tâm đồ
Nếu phức bộ QRS có nhiều sóng dương, thì lấy hình chiếu của đỉnh sóng dương cuối cùng, thời gian đó thường được đo ở V1, V2, V5, V6.
Tính tần số tim trên điện tâm đồ
Khi nhịp tim không đều, ta phải chọn vài khoảng RR dài ngắn khác nhau mà tính lấy trung bình cộng rồi hãy tính ra tần số tim trung bình.
Hình ảnh hội chứng Wolf Parkinson White (WPW) trên điện tâm đồ
Hội chứng này có thể gặp ở người bình thường ở một số bệnh nhiễm khuẩn, dị ứng, thoái hóa hay ở các bệnh mạch vành, thấp tim, tim bẩm sinh, nhất là bệnh Ebstein.