Đặt ống nội khí quản qua đường miệng có đèn soi thanh quản

2014-10-02 08:20 PM

Thầy thuốc đeo găng tay, tay trái cầm đèn soi khí quản rồi đưa vào bên phải lưỡi chuyển vào đường giữa. Dùng hai ngón tay của bàn tay phải đẩy gốc lưỡi sang bên nếu lưỡi bị kẹt giữa lưỡi đèn và răng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Mục đích

Đặt ống nội khí quản qua đường miệng có đèn soi là thủ thuật luồn qua miệng một ống nội khí quản, vượt qua thanh môn vào khí quản một cách an toàn. Đó là một thủ thuật rất thông dụng trong hồi sức cấp cứu và gầy mê hồi sức, đặc biệt là khi cần khẩn trương.

Chỉ định

Giống như chỉ định của đặt ống nội khí quản mò.

Chống chỉ định

Sai khớp hàm.

U vòm họng.

Vỡ xương hàm.

Phẫu thuật vùng hàm họng.

Chuẩn bị

Đã nêu ở trong phần đặt ống nội khí quản mò. Chuẩn bị thêm các thuốc gây tê và gây mê theo yêu cầu của thầy thuốc.

Các bước tiến hành

Vô cảm: nếu người bệnh tỉnh.

Gây tê tại chỗ

Tiêm tĩnh mạch xylocain 1,5mg/kg 3 phút trước khi đặt ống nội khí quản hoặc xịt xyiocain 4% vào lưỡi, họng và thanh môn, hoặc khí dung qua mặt nạ 4ml xylocain 4% hoà với 1ml phenylephrin. Nếu vẫn còn dấu hiệu co thắt, không luồn ống qua thanh môn được: tiêm tại chỗ 2ml 2% xylocain dưói sừng phải và sừng trái của sụn móng hoặc tiêm 4ml xylocain qua màng nhẫn giáp.

Gây mê: phối hợp hoặc dùng riêng rẽ.

Fentanyl 1-1,5 pg/kg, tĩnh mạch.

Midazolam 0,3 mg/kg, tĩnh mạch.

Gây bloc thần kinh cơ.

Succinylcholin 0,1-1 mg/kg, tĩnh mạch; không dùng cho người bệnh tăng kali máu.

Phối hợp hay không với vecuronium, pancuronium.

Kỹ thuật

Thầy thuốc đeo găng tay, tay trái cầm đèn soi khí quản rồi đưa vào bên phải lưỡi chuyển vào đường giữa. Dùng hai ngón tay của bàn tay phải đẩy gốc lưỡi sang bên nếu lưỡi bị kẹt giữa lưỡi đèn và răng.

Đưa dần lưỡi đèn xuôhg dưói để tìm nắp thanh môn. Nâng lưỡi đèn 45° sẽ thấy nắp thanh môn.

Dùng lưỡi đèn đẩy nắp thanh môn lên trên để bộc lộ hai dây thanh đới. Tay phải cầm ống nội khí quản đẩy vào giữa hai dây thanh đới, sao cho bóng chèn chui hẳn vào trong khí quản. Hơi thở người bệnh sẽ phụt mạnh ra đầu ngoài của ống. Dùng bóng Ambu lắp vào ống kiểm tra xem khí đã vào đến phổi?

Nếu lần đầu luồn ống thông không kết quả, nên xem lại vị trí đầu của người bệnh. Mỗi lần đặt ống không kéo dài quá 20 giây.

Luồn một vỏ bơm tiêm nhựa đã cắt đầu qua ống nội khí quản để người bệnh khỏi cắn vào ống. cố định ống nội khí quản. Hút đờm. Có'thể dùng canun Guedel để ngáng miệng.

Theo dõi và xử trí tai biến

Theo dõi

Kiểm tra vị trí của ống nội khí quản bằng chụp X quang phổi. Đầu Ống phải ở giữa hai đầu xương đòn, khoảng 1/3 giữa khí quản.

Điện tim.

Đo áp lực khí trong máu.

Độ bão hòa oxy trong máu.

Xử trí

Ngừng tim đột ngột do co thắt thanh môn quá mạnh, do phản xạ: đấm mạnh vào vùng trước tim nhiều lần, tiếp tục bóp bóng Ambu qua ống nội khí quản với oxy 100%. Cấp cứu ngừng tim.

Chảy máu do chấn thương họng, nắp thanh môn: bơm căng bóng chèn, chèn gạc chỗ chảy máu.

Phù nề nắp thanh môn và dây thanh đới, kiểm tra các biến chứng này trước khi rút ống.

Nhiễm khuẩn phổi phế quản sau 24 giờ: kháng sinh, đặc biệt là kháng sinh chống vi khuẩn Gram âm.

Bài viết cùng chuyên mục

Sốc do tim: dấu hiệu triệu chứng, chẩn đoán điều trị cấp cứu hồi sức

Tăng sức cản hệ thống thường quá mức, kết hợp với hiện tượng tăng tiết catecholamin, aldosteron quá nhiều sẽ dẫn đến suy tim do giảm cung lượng tim.

Tai biến chảy máu do dùng thuốc chống đông

Đáng sợ nhất là chảy máu não, nhất là tụ máu dưới màng cứng, xảy ra ở người đang dùng thuốc chống đông, xảy chân ngã không mạnh.

Ngộ độc Acid mạnh

Không rửa dạ dày vì gây thủng và làm lan rộng tổn thương. Không trung hoà bằng bicarbonat vì ít tác dụng lại làm dạ dày trướng hơi, do phát sinh nhiều C02 tạo điều kiện cho thủng dạ dày.

Đặt ống nội khí quản mò qua đường mũi

Đẩy nhanh ống vào sâu khi người bệnh bắt đầu hít vào. Nếu ống qua thanh môn, người bệnh sẽ ho, nhưng mất tiếng. Đồng thời hơi từ phổi người bệnh phì mạnh qua ống có khi cả đờm phọt ra.

Các rối loạn phospho máu

Hoàn cảnh xuất hiện: trong hồi sức cấp cứu nghĩ đến hạ phospho máu khi: dinh dưỡng một bệnh nặng kéo dài, có bệnh tiêu hoá mạn tính, dùng các thuốc chông toan dịch vị.

Đặt ống thông vào động mạch

Theo dõi bàn tay người bệnh. Nếu bàn tay người bệnh nhợt đi là động mạch quay không có tuần hoàn nối với động mạch trụ, phải chuyển sang động mạch quay bên kia.

Nuôi dưỡng qua ống thông dạ dày

Nối túi đựng thức ăn lỏng vối ông thông; điều chỉnh giọt sao cho phù hợp với lượng calo. Tính trọng lượng cơ thể lý thuyết đơn giản

Suy hô hấp cấp: cấp cứu hồi sức

Suy hô hấp cấp là tình trạng phổi đột nhiên không bảo đảm được chức năng trao đổi khí gây ra thiếu oxy máu, kèm theo hoặc không kèm theo tăng C02 máu.

Cấp cứu say nắng

Trong say nóng, trung tâm điều hoà thân nhiệt không thích ứng với điều kiện thời tiết xung quanh. Còn trong say nắng, bản thân trung tâm điều hoà thân nhiệt bị chấn động đả kích.

Viêm nhiều rễ dây thần kinh

Tổn thương giải phẫu bệnh rất giống tổn thương trong viêm dây thần kinh câp thực nghiệm bằng cách tiêm cho con vật một tinh chất của dây thần kinh ngoại vi.

Đặt ống thông tĩnh mạch dưới đòn phương pháp chọc Troca qua da

Lắp bơm tiêm vào kim, vừa chọc vừa hút đến khi thấy máu trào ra (chú ý chỉ chọc khi bệnh nhân thỏ ra). Tháo bơm tiêm, luồn ống thông vào kim một đoạn khoảng 10,12cm

Các rối loạn magnesium máu

Các dấu hiệu lâm sàng nặng dần với mức độ tăng Mg máu. 3-5 mEq/1: ngủ gà, lẫn lộn, ly bì - mất phản xạ gân xương.

Thông khí nhân tạo với thể tích lưu thông (VT) tăng dần

Nếu người bệnh có chiều cao và trọng lượng thấp (nam cao dưối l,6m, nặng dưới 55 kg; nữ cao dưói l,5m, nặng dưổi 50 kg) thì Vt tăng mỗi ngày là 50ml, lưu lượng dòng tăng mỗi ngày là 5 lít/phút.

Chứng porphyri cấp

Chứng porphyri cấp từng đợt, chứng coproporphyri gia truyền và chứng pornhyri variegata là 3 loại porphyri gan - có thể gây ra những bệnh cảnh cấp cứu giống như viêm nhiều rễ thần kinh.

Ngộ độc phụ tử

Sau khi nhấm một ngụm rượu phụ tử, bệnh nhân nhận thấy có rối loạn cảm giác, cảm giác kiến bò ở lưỡi rồi mất hết cảm giác ở lưỡi.

Bệnh mạch vành và thiếu máu cơ tim

Cơn đau thắt ngực không ổn định, thường xuất hiện sau gắng sức nhỏ, nhưng đôi khi không do gắng sức, kéo dài lâu hơn, hàng chục phút, các xét nghiệm có độ đặc hiệu thấp và độ nhậy thấp.

Thăng bằng kiềm toan trong cơ thể

Trong huyết tương có hệ thông đệm bicarbonat HC03/H2C03 là quan trọng nhất, ngoài ra còn có các hệ thông phosphat và proteinat là chủ yếu.

Ngộ độc các chất gây rối loạn nhịp tim

Trong ngộ độc cocain gây tăng huyết áp nên tránh dùng các loại chẹn beta vì có thể kích thích alpha gây co thắt động mạch, làm tăng huyết áp. Thuốc thích hợp là nhóm benzodiazepin.

Luồn ống thông vào mạch máu bằng phương pháp Seldinger

Tìm mạch cảnh đẩy vào phía trong, cắm kim vào bơm tiêm 20ml, chọc vào giữa tam giác, vừa chọc vừa hút song song với mặt cắt trưóc sau và làm một góc 30° vói mặt trước cổ, chọc sâu khoảng 1,5 - 3cm.

Ngộ độc Asen vô cơ

Uống một lúc trên 0,20g anhydrit asenito có thể bị ngộ độc nặng, tử vong. Muối asen vô cơ gây độc mạnh hơn nhiều so với muối hữu cơ, và cũng tích luỹ lâu hơn trong cơ thể.

Ong đốt

Chỉ có ong cái là có ngòi. Ong nhà và ong bầu có ngòi dài 2 - 3 mm có gai, khi đốt để lại ngòi trong da. Đốt xong ong sẽ chết. Ong vò vẽ và ong bắp cày có ngòi ngắn nhẵn không có gai.

Các nguyên lý cơ bản trong hồi sức cấp cứu

Hồi sức cấp cứu có nghĩa là hồi phục và hỗ trợ các chức năng sống của một bệnh cấp cứu nặng. Khi mời tiếp xúc với bệnh nhân cấp cứu, công việc của người thầy thuốc là phải kiểm tra các chức năng sống của bệnh nhân.

Ngộ độc sắn

Trong vỏ sắn có một heteroizit bị thuỷ phân trong nước thành acid cyanhydric, aceton và glucose vì vậy độc tính của sắn chủ yếu là do acid cyanhydric. Để tránh bị ngộ độc, người ta bóc vỏ, và ngâm sắn trong nước trước khi luộc.

Ngộ độc Phenol, Cresyl và dẫn chất

Ngộ độc nhẹ. Rối loạn tiêu hoá: nôn mửa, buồn nôn, ỉa chảy. Rối loạn thần kinh và toàn thân: mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, gầy sút nhanh. Tại chỗ: với dung dịch đặc, gây hoại tử hoặc hoại thư.

Ngộ độc cá phóng nọc khi tiếp xúc

Da sưng viêm nặng loét, bội nhiễm. Nhiễm độc nặng có thể gây sốt, liệt, hôn mê bloc nhĩ thất, ức chế hô hấp, sốc nhiễm độc. Có thể gây tử vong.