- Trang chủ
- Sách y học
- Hồi sức cấp cứu toàn tập
- Hội chứng tiêu cơ vân cấp
Hội chứng tiêu cơ vân cấp
Sự giải phóng ào ạt vào máu của các lactat và các acid hữu cơ dẫn đến toan chuyển hóa máu nặng. Toan chuyển hóa làm giảm chức năng co bóp cơ tim, làm K+ trong tế bào ra ngoài.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đại cương
Tiêu cơ vân là một hội chứng lâm sàng và sinh học chỉ tình trạng hủy hoại của tế bào cơ vân làm giải phóng vào trong máu các thành phần của tế bào như: myoglobin, các men trong tế bào cơ vân, kali, phospho... dẫn đến rối loạn nước điện giải, sốc giảm thể tích, toan chuyển hóa, suy thận cấp.
Được biết từ năm 1941 với tên gọi "hội chứng vùi lấp” do Bywaters và Beal mô tả ở một số nạn nhân bị bom vùi một hội chứng lâm sàng đặc biệt: lúc đầu sau khi được sơ cứu không có dấu hiệu gì đặc biệt nhưng ngay sau đó sẽ xuất hiện các dấu hiệu sốc: mạch nhanh, giảm huyết áp, nước tiểu ít có thể vô niệu, trong nước tiểu có chứa myoglobin. Bệnh nhân tử vong trong vòng 10 ngày trong bệnh cảnh sốc, suy thận cấp.
Từ những năm 70 trở lại đây: nhờ sự phát triển của kỹ thuật người ta đã hiểu biết, đầy đủ hơn về hội chứng này, đồng thời còn phát hiện ra nhiều trường hợp có biểu hiện giông như vùi lấp nhưng không do chấn thương (hay còn gọi là do nguyên nhân nội khoa). Vì vậy người ta gọi chung là hội chứng tiêu cơ vân cấp (rhabdomyolyse, rhabdomyolysis).
Hội chứng tiêu cơ vân rất hay gặp cả. Trong cấp cứu ngoại khoa và nội khoa. Chẩn đoán và điều trị sớm có thể hạn chê các biến chứng của nó và làm giảm tỷ lệ tử vong.
Nguyên nhân
Tổn thương cơ trực tiếp do chấn thương
Tai nạn giao thông, sập hầm, đổ nhà, động đất...
Bỏng rộng đặc biệt do (điện giật, sét đánh).
Thiếu máu cục bộ cấp tính
Tắc động mạch cấp tính do chèn ép hoặc do hơi.
Vận động cơ quá mức
Như chạy đưòng dài mà không được chuẩn bị tốt các tình trạng co giật liên tục kéo dài.
Nhiễm độc cấp
Mã tiền, thuốc chuột tầu, rimifon, heroin, carbon oxyt, thuốc ngủ, an thần gây hôn mê kéo dài, ong đốt, rắn, nhện cắn.
Một số bệnh nhiễm khuẩn và virus
Uấn ván, viêm đa cơ gây mủ, nhiễm legionella.
Một số trường hợp khác như
Tăng thân nhiệt quá cao hoặc hạ thân nhiệt dưói 35°c kéo dài, giảm kali máu, giảm natri máu, nhiễm toan ceton, hôn mê tăng thẩm thấu...
Sinh lý bệnh
Tế bào cơ vân bị hủy hoại qua một số cơ chế sau
Do chấn thương trực tiếp.
Do thiếu máu cục bộ cấp tính.
Do bị nhiễm độc.
Cả 3 cơ chế có thể riêng rẽ hay phôi hợp với nhau tùy theo nguyên nhân gây ra.
Khi cơ bị hủy hoại sẽ dẫn đến các hậu quả sau
Rốĩ loạn nước và điện giải.
Toan chuyển hóa.
Giảm thể tích có thể gây sốc.
Suy thận cấp.
Suy hô hấp cấp tiến triển, đông máu rải rác trong lòng mạch.
Tổn thương cục bộ.
Rối loạn nước và điện giải
Khi bị tổn thương màng tế bào, tính thấm của màng tế bào bị rối loạn, các dòng chảy của ion bị đảo lộn, hậu quả là Na+ chạy vào trong tế bào kéo theo nước và Cl, làm mất nưóc khu vực ngoài tế bào, nếu nặng gây sốc.
K+ trong tế bào ra ngoài là một nguy cơ tăng phospho và giảm calci máu (do chạy vào trong tế bào) càng làm nguy cơ này tăng lên và đây là một yếu tố tiên lượng sống còn của bệnh nhân ngay trong những giờ đầu tiên.
Toan chuyển hoá
Sự giải phóng ào ạt vào máu của các lactat và các acid hữu cơ dẫn đến toan chuyển hóa máu nặng. Toan chuyển hóa làm giảm chức năng co bóp cơ tim, làm K+ trong tế bào ra ngoài. Kết quả với tình trạng giảm thể tích càng làm cho dễ xuất hiện sốc
Toan máu còn làm toan hóa nước tiểu tạo điều kiện cho myoglobin và acid uric lắng đọng ở ống thận.
Sốc giảm thể tích
Do Na+ vào trong tế bào kéo theo nước và Cl làm mất dịch ở khu vực ngoài tế bào, mặt khác chức năng co bóp của cơ tim cũng giảm do toan chuyển hóa, tăng K+ máu, giảm calci máu và còn có thể phối hợp với các nguyên nhân khác nữa trong bệnh cảnh của sốc chấn thương.
Suy thận cấp
Xuất hiện sốm, tiến triển nhanh vì đồng thời giảm chức năng thận đột ngột giông như trong các trường hợp suy thận cấp khác. Mặt khác do toan chuyển hóa, các chất trong tế bào vào máu rất nhanh như: K+, creatinin, acid uric, myoglobin, các men trong tế bào.
Cơ chế của suy thận cấp phức tạp có lìèn quan nhiều yếu tố:
Giảm thể tích.
Lắng đọng acid uric, myoglobin ở ống thận.
Tế bào ống thận cũng bị ảnh hưởng trực tiếp của sốc, toan chuyển hóa giảm tưới máu do rối loạn phân bố máu của mạch thận. Suy thận cấp là một yếu tố tiên lượng nặng bệnh nhân có thể tử vong do: tăng K+ máu, toan hóa máu nặng, rối loạn đông máu, suy thận cấp, phù phổi cấp...
Suy hô hấp cấp tiến triển và đông máu rải rác trong lòng mạch
Tuỵ có ít gặp hơn nhưng nó là biến chứng của giai đoạn nhiễm độc do giải phóng ra các chất trung gian của phản ứng viêm như các chất hoạt hóa kinin, prostaglandin, serotonin...).
Thiếu máu cục bộ cấp tính ỏ vùng bị đè ép dẫn đến chuyển hóa yếm khí làm rối loạn trao đổi qua màng tế bào. Mặt khác giải phóng các yếu tố hoạt hóa của quá trình viêm làm phù khoảng kẽ càng làm nặng thêm tình trạng thiếu máu.
Tổn thương trực tiếp màng tế bào do chấn thương cũng làm cho các thành phần trong tế bào như K+, phospho, myoglobin tràn vào máu. Do đó có thể giải thích được giai đoạn nhiễm độc xuất hiện sau khi đưa nạn nhân ra khỏi đống đổ nát.
Các nguyên nhân nội khoa gây tiêu cơ vân qua một số cơ chế sau
Thiếu máu cục bộ cấp tính (hôn mê do bacbituric nằm bất động) ngoài ra còn có các yếu tố khác cũng tham gia vào như: toan máu, hạ thân nhiệt, hạ huyết áp.
Ngộ độc các thuốc gây co giật hoặc các bệnh nhân gây co giật hoặc vận động quá mức là do tế bào cơ vân phải vận động quá mức trong khi đó việc cung cấp oxy, dinh dưỡng cho tê bào không đủ, thường gây ra toan chuyển hoá nặng.
Chỉ có một số ít gây huỷ hoại tế bào cơ trực tiếp như: nọc ong, rắn cắn và một số côn trùng khác, độc tố vi khuẩn, virus...
Lâm sàng
Hội chứng vùi lấp: tiến triển qua 3 giai đoạn
Khi nạn nhân mới ra khỏi nơi bị vùi lấp, thể trạng còn tốt, da hơi xanh, có vài vệt xước trên da, các chi bị vùi có cảm giác nặng nề, có thể không thấy các tổn thương xương.
Sau đó 1 vài giờ xuất hiện phù cục bộ ở chi, phù cứng, giảm vận động, cảm giác và phản xạ gân xương, phù lan nhanh, nước tiểu ít và sẫm màu, mạch nhanh dần, tụt huyết áp.
Xét nghiệm ở giai đoạn này cho thấy: hematocrit tăng, kali máu tăng, toan chuyển hoá, điện tim có dấu hiệu của tăng kali máu.
2 - 3 ngày sau xuất hiện bệnh cảnh của suy thận cấp. Bệnh nhân tử vong trong vòng 10 ngày nếu không điều trị.
Tiêu cơ vân không do chấn thương
Do nhiều nguyên nhân gây ra tiêu cơ vân khác nhau như:
Hôn mê do ngộ độc thuốc ngủ.
Điện giật: dòng điện cao thế gây bỏng và tiêu cơ vân, tổn thương ngoài da không phản ánh đúng tổn thương tiêu cơ vân. Vì vậy không có một dấu hiệu lâm sàng nào có ý nghĩa quyết định. Tuy vậy trong một số” bệnh cảnh sau có thể gợi ý là có thể có tiêu cơ vân:
Sốc giảm thể tích: mạch nhanh, huyết áp hạ, nước tiểu ít, CVP thấp < 5 mà không cắt nghĩa được nguyên nhân.
Toan chuyển hoá.
Tăng kali, kèm theo tăng phospho, giảm calci.
Suy thận cấp.
Bệnh nhân hôn mê nằm bất động (nhiều khối cơ bị đè).
Co giật kéo dài.
Nước tiểu có màu đỏ sẫm sau chuyển sang đen nhưng không có cặn, ly tâm máu thấy màu sắc huyết tương bình thường.
Chẩn đoán
Lâm sàng chỉ có tính chất gợi ý.
Hội chứng vùi lấp: lâm sàng dễ chẩn đoán, thường kèm theo các tổn thương khác.
Tiêu cơ vân không do chấn thương: khó chẩn đoán, lâm sàng thường biếu hiện các triệu chứng của nguyên nhân gây ra bệnh đó.
Chẩn đoán xác định
Lượng men CPK trong máu gấp trên 5 lần bình thường thì chắc chắn (CPK bình thường 30 - 160 đơn vị trong đó CPKMB dưới 24 đơn vị). Xét nghiệm này cho kết quả nhanh và tin cậy.
Tìm myoglobin niệu: cũng cho kết quả tin cậy nhưng phải chờ đợi lâu.
Chẩn đoán phân biệt
Với nhồi máu cơ tim cấp (cũng có tăng CPK) nhưng ngoài ru còn dấu hiệu lâm sàng và điện tim giúp chẩn đoán phân biệt.
Trong nhồi máu não mới, CPK cũng tăng nhưng kèm theo các dấu hiệu thần kinh khu trú.
Điều trị
Chủ yếu là điều trị triệu chứng nhằm hạn chế các rối loạn về nước điện giải thăng bằng toan kiềm, phòng suy thận cấp.
Do chấn thương
Còn khó khăn phức tạp đòi hỏi sự phối hợp của nhiều khoa: hồi sức cấp cứu + gây mê + ngoại.
Thận nhân tạo, labo xét nghiệm.
Phải xử trí ngay từ khi tiếp xúc với nạn nhân: đảm bảo thông đường dẫn khí: đặt nội khí quản ngay nếu bệnh nhân hôn mê hoặc có mảng sườn di động hoặc đang giập phổi, oxy qua ống thông hoặc mask, truyền dịch NaCl 0,9% nhanh. Băng ép ở gốc chi (làm chậm quá trình vận chuyển các chất vào máu).
Sau đó đánh giá tình trạng toàn thân và tại chỗ. Tiếp tục truyền dịch NaCl 0,9% và natribicarbonat theo dõi CVP, huyết áp, nước tiểu từng giờ, đảm bảo thông khí tốt mới chuyển đến bệnh viện.
Tại bệnh viện:
Tiếp tục truyền dịch theo CVP gây bài niệu cưỡng bức bằng furosemid hoặc manitol, duy trì lượng nước tiểu 200 - 300ml/giờ.
Kiềm hoá máu và nước tiểu bằng natribicarbonat duy trì pH niệu 6,5. Biện pháp này nhằm đổi phó với tăng kali máu, toan chuyển hoá, làm tăng đào thải myoglobin và acid uric, dự phòng suy thận cấp phải theo dõi từng giờ, phút để quyết định lượng truyền:
Calci clorua tiêm tĩnh mạch khi có tăng K máu.
Dobutrex 5 - 25 pg/kg/phút nếu CVP tăng > 10cm H20, huyết áp vẫn thấp, nước tiểu ít.
Lọc máu (hemofiltration hay lọc màng bụng liên tục) khi thở máy với PEEP trong trường hợp có ALI hoặc ARDS có dấu hiệu của suy thận cấp về mặt xét nghiệm mà không cần đợi bệnh nhân vô niệu, phải theo dõi sát, có khi phải lọc máu 1 lần/ngày. Tìm các tổn thương ngoại khác để can thiệp nếu có chỉ định, 50% các bệnh nhân sốc chấn thương có suy thận cấp và 40% trong số đó tử vong.
Không do chấn thương
Thường là chẩn đoán được khi có biến chứng.
5 - 33% số bệnh nhân tiêu cơ vân nguyên nhân nội khoa có biến chứng sốc, suy thận cấp.
Điều trị nguyên nhân gây ra tiêu cơ vân
Không phải tất cả các trường hợp tiêu cơ vân nào cũng có biến chứng nhưng hiện nay người ta thây các yếu tố sau có ý nghĩa tiên lượng:
Men CPK tăng trên 15.000 đơn vị.
Tăng kali máu.
Tăng phospho máu.
Bài viết cùng chuyên mục
Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu ở người đái tháo đường
Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu hay gặp ở bệnh nhân già có đái tháo đường không phụ thuộc insulin, tuy nhiên hôn mê tăng áp lực thẩm thấu có thể đã bị hôn mê có toan cêtôn máu.
Ngộ độc Aceton
Aceton được dùng để hòa tăng áp lực nội sọ nhiều chất dùng trong gia đình (gắn gọng kính, gắn cánh quạt nhựa cứng, làm thuốc bôi móng tay, lau kính...) Aceton gây ngộ độc qua đường hô hấp vì chất bay hơi.
Ngộ độc Phospho vô cơ và Phosphua kẽm
Ngộ độc nhẹ gây suy tế bào gan cấp, suy thận cấp rối loạn thần kinh, có thể kết thúc bằng tình trạng sốc muộn sau 2 ngày. Vì vậy phải theo dõi sát bệnh nhân trong một hai tuần đầu.
Chọc hút qua màng nhẫn giáp
Là thủ thuật lấy bệnh phẩm trong khí phế quản để xét nghiệm chẩn đoán tế bào học, vi khuẩn, ký sinh vật bằng một ông thông luồn qua kim chọc qua màng nhẫn giáp để hút dịch khí phế quản hoặc rửa khí phế quản với một lượng dịch nhỏ hơn hoặc bằng 10ml.
Thổi ngạt
Thầy thuốc quỳ chân, ngửa đầu lên hít một hơi dài rồi cúi xuống áp chặt vào miệng nạn nhân, một tay bịt hai lỗ mũi nạn nhân, một tay đẩy hàm dưới ra phía trước.
Sốc do tim: dấu hiệu triệu chứng, chẩn đoán điều trị cấp cứu hồi sức
Tăng sức cản hệ thống thường quá mức, kết hợp với hiện tượng tăng tiết catecholamin, aldosteron quá nhiều sẽ dẫn đến suy tim do giảm cung lượng tim.
Các rối loạn calci máu (tăng hạ)
Mỗi ngày cơ thể chuyển hoá 25 mmol, thải trừ 20 mmol ra phân và 5 mmol ra nưóc tiểu. Tuyến giáp trạng làm cho Ca từ xương ra, còn vitamin D làm ngược lại.
Nuôi dưỡng qua ống thông dạ dày
Nối túi đựng thức ăn lỏng vối ông thông; điều chỉnh giọt sao cho phù hợp với lượng calo. Tính trọng lượng cơ thể lý thuyết đơn giản
Ngộ độc sắn
Trong vỏ sắn có một heteroizit bị thuỷ phân trong nước thành acid cyanhydric, aceton và glucose vì vậy độc tính của sắn chủ yếu là do acid cyanhydric. Để tránh bị ngộ độc, người ta bóc vỏ, và ngâm sắn trong nước trước khi luộc.
Ngộ độc Phenol, Cresyl và dẫn chất
Ngộ độc nhẹ. Rối loạn tiêu hoá: nôn mửa, buồn nôn, ỉa chảy. Rối loạn thần kinh và toàn thân: mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, gầy sút nhanh. Tại chỗ: với dung dịch đặc, gây hoại tử hoặc hoại thư.
Cấp cứu suy thận cấp
Trong một số trường hợp suy thận cấp có tiên lượng nhẹ, nhưng suy thận cấp xuất phát từ những bệnh nhân cực kỳ nặng đang nằm ở khoa hồi sức cấp cứu thưòng là rất nặng và có tỷ lệ tử vong cao.
Mở khí quản: chỉ định, chống chỉ định trong hồi sức
Phẫu thuật viên dùng tay trái cố định khí quản ở giữa, tay phải cầm dao mô rạch da theo đường dọc giữa cổ, đường rạch đi từ dưỏi cổ.
Sốt rét ác tính (sốt rét nặng có biến chứng)
Các rối loạn thần kinh nổi bật là: rối loạn hành vi, rối loạn ý thức, hôn mê nhanh, đôi khi đột ngột, đôi khi co giật, liệt, mất vỏ, mất não.
Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS)
Điểm độc đáo của hội chứng này là xuất hiện đột ngột tiếp sau một bệnh lý ở phổi hay nơi khác trên một người không có bệnh phổi trước đó.
Ngạt nước (đuối nước)
Ngất trắng giống như tình trạng sốc nặng không gây ngừng tim ngay. Nếu may mắn lúc này nạn nhân được vớt lên và được cấp cứu ngay thì dễ có khả năng hồi phục vì phổi chưa bị sặc nước.
Bóp tim ngoài lồng ngực và thổi ngạt
Ngoài thổi ngạt hoặc bóp bóng Ambu, kiểm tra mạch bẹn để đánh giá hiệu quả của bóp tim (hai lần kiểm tra một lần). Tiếp tục thực hiện đến khi mạch đập trở lại hoặc có thêm đội ứng cứu.
Ngộ độc Base mạnh
Các base thường gặp là: sút (NaOH), KOH, cacbua calci, vôi sống, xi măng, nước Javel, natri phosphat còn làm hạ calci máu.
Bệnh học bại liệt
Liệt cơ hoành: bệnh nhân thở kiểu sườn trên, theo trục dọc. Ấn bàn tay vào vùng thượng vị, bảo bệnh nhân phồng bụng, không thấy bàn tay bị đẩy lên.
Thông khí nhân tạo bệnh nhân có áp lực dương cuối thì thở ra nội sinh (Autto Peep)
Đặt ống nội khí quản hay canun mở khí quản đúng cỡ 7, hay 8 (đường kính ống nhỏ làm tăng mức auto - PEEP vì tăng sức cản đường dẫn khí, bơm cuff ống ở mức quy định 18 - 25 cm nước, hút đờm sạch 1 giờ/ lần.
Ngộ độc cồn Metylic
Cồn methylic có thể gây ngộ độc do hít phải hơi, do tiếp xúc với da, do uống nhầm, cồn methylic rất độc vì: Thải trừ chậm - chuyển hoá thành formol và acid formic. Liều gây chết người ở người lớn khoảng 30 - 100ml.
Ngộ độc thức ăn
Vi khuẩn có độc tố phát triển trong thực phẩm: tụ cầu, lỵ trực trùng, phẩy khuẩn tả. Vi khuẩn clostridium botulinum yếm khí sống trong thịt hộp, xúc sích khô, thịt khô.
Ngộ độc nấm độc
Viêm gan nhiễm độc: vàng da, GPT tăng cao, phức hợp prothrombin giảm. Hiệu giá của GPT tỷ lệ với tình trạng hoại tử tế bào gan và có ý nghĩa tiên lượng bệnh.
Ngộ độc các chất ma túy (opiat)
Chất ma tuý gây ra cho người dùng khoái cảm, sau một thời gian tiếp theo sẽ gây tình trạng quen thuốc, nghĩa là sự chịu dựng cao liều mỗi ngày một cao, đôi khi rất nguy hiểm cho người mối dùng.
Hội chứng suy đa tạng
MODS là một hội chứng xuất hiện ở nhiều bệnh nhân đang hồi sức cấp cứu, do nhiều nguyên nhân khác nhau như nhiễm khuẩn, ký sinh trùng hay đa chấn thương, bỏng.
Đặt ống thông Blackemore
Nếu người bệnh hôn mê: phải đặt ống nội khí quản có bóng chèn trước khi đặt ống thông để tránh sặc vào phổi. Kê gổi dưới đầu người bệnh để đầu gập lại rồi đẩy ống thông từ từ.