- Trang chủ
- Xét nghiệm
- Điện tâm đồ bình thường và bệnh lý
- Tạo nhịp VVI với cảm biến không đủ trên điện tâm đồ
Tạo nhịp VVI với cảm biến không đủ trên điện tâm đồ
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các vấn đề về nhịp tim (rối loạn nhịp tim) xảy ra khi xung điện do tim tạo ra bình thường phối hợp nhịp nhàng với nhịp tim không hoạt động đúng chức năng khiến tim đập quá nhanh, quá chậm hoặc bất thường.
Tuổi tác làm gia tăng nguy cơ rối loạn nhịp tim. Nó hoàn toàn có thể xảy ra ngay cả với người không có tiền sử mắc bệnh tim mạch.
Một số rối loạn nhịp tim là vô hại, mặc dù một số loại khác như nhịp nhanh thất (tim đập quá nhanh) thường rất nghiêm trọng thậm chí đe dọa đến tính mạng.
Máy tạo nhịp là một trong những liệu pháp không dùng thuốc thành công nhất và cũng xuất hiện sớm nhất trong xử lý rối loạn nhịp tim. Hàng triệu máy tạo nhịp đã đuợc ghép kể từ khi chiếc máy tạo nhịp đầu tiên được Elmquist và Senning ghép cho bệnh nhân năm 1958. Không cần phải dùng thuốc ngoại trừ trong trường hợp cấp tính trước khi ghép máy tạo nhịp vĩnh viễn hoặc tạm thời.
Máy tạo nhịp là một dụng cụ được dùng để điều chỉnh nhịp tim.
Nếu phát hiện thấy nhịp tim quá chậm, có thể ghép máy tạo nhịp vào cơ thể để thực hiện chức năng này. Một dụng cụ điện tử tự động theo dõi và điều hòa nhịp tim bằng cách chuyển xung động điện đến kích thích tim khi thấy nó đập qúa chậm.
Máy tạo nhịp bao gồm một đầu chỉnh nhịp và một bộ phận phát xung động. Máy tạo nhịp đơn một khoang chỉ có một đầu chỉnh nhịp, máy kép hai khoang có hai đầu, một đầu dẫn vào tâm nhĩ và đầu kia dẫn vào tâm thất. Máy điều nhịp khoang kép có tính sinh lý cao hơn nhưng đắt hơn.
Các dấu hiệu bất thường về nhịp tim hiện nay đã được nắm rõ. Dấu hiệu quan trọng nhất vẫn là tắc nghẽn tim hoàn toàn và hội chứng giống như bệnh xoang chiếm 95% các ca cần cấy máy điều hòa nhịp tim tại Singapore. Trong cuộc khảo sát về máy tạo nhịp tim gần đây nhất vào năm 2005 tại Singapore, tỉ lệ cấy ghép là 91 phần triệu. Đối với dân số đang lão hoá như của chúng ta, nhu cầu cấy máy tạo nhịp tim ở Singapore chắc chắn sẽ tăng lên nhanh chóng. Tại châu Âu, Nhật Bản và Mỹ, tỉ lệ cấy ghép đã gần đến mức 300-1000 phần triệu

Máy tạo nhịp VVI với cảm biến không đủ, mà kết quả là khả năng bị cạnh tranh do không tương thích trong kích thích tâm thất (dấu hoa thị đầu tiên và thứ 4 trên điện tâm đồ).
Bài viết cùng chuyên mục
Nhồi máu cơ tim vùng trước bên trên điện tâm đồ
Việc điều trị tiêu sợi huyết và can thiệp động mạch vành sớm đã tạo nhiều cơ hội để mở thông những động mạch vành bị tắc cấp tính và khôi phục lại dòng chảy bình thường tới vùng cơ tim bị tổn thương.
Nhồi máu cơ tim cũ: hình ảnh trên điện tâm đồ
Sóng Q của các đạo trình vùng sau dưới, với sóng T đảo ngược, là chỉ điểm của nhồi máu cơ tim cũ vùng thành dưới, sóng T cao nhọn đối xúng có thể do tăng kali máu.
Rung nhĩ và đường dẫn truyền phụ qua trung gian thoái hóa thành rung thất
Rung nhĩ và đường dẫn truyền phụ qua trung gian, nhịp tim nhanh bất thường phức bộ rộng (một nửa trái) bị thoái hóa thành rung thất (Nửa phải).
Viêm màng ngoài tim sau nhồi máu cơ tim cấp tính
Mặc dù đã có rất nhiều tiến bộ trong công tác hồi sức cấp cứu và can thiệp mạch vành, tỷ lệ tử vong do nhồi máu cơ tim cấp vẫn còn cao.
Điện tâm đồ ở bệnh nhân xuất huyết dưới nhện cấp
10 phần trăm xuất huyết khoang dưới nhện riêng lẽ quanh thân não (đặc biệt là trung não) không xác định được nguyên nhân
Tiền kích thích với rung nhĩ trên điện tâm đồ
Tiền kích thích với rung nhĩ. Tấn số không đều, và có những mức độ khác nhau của QRS tiền kích thích.
Trục điện tim lệch phải ở bệnh nhân thông liên nhĩ lỗ thứ hai
Thông liên nhĩ thể xoang tĩnh mạch, xảy ra ở cạnh sau trên của vách ngăn tâm nhĩ, thường liên quan đến sự trở về bất thường một phần của tĩnh mạch phổi.
Hình thái học bề mặt sóng P trên điện tâm đồ
Tâm nhĩ phải mở rộng, minh họa kết hợp đỉnh điện áp tâm nhĩ phải và bên trái xảy ra vào cùng thời gian với kết quả sóng P cao đỉnh.
Điện tâm đồ ở bệnh nhân bị hạ thân nhiệt
Khi cân bằng giữa sản xuất nhiệt và mất nhiệt của cơ thể đối với sự mất nhiệt trong một thời gian kéo dài, hạ thân nhiệt có thể xảy ra, Hạ thân nhiệt do tai nạn thường xảy ra
Cuồng động nhĩ đảo ngược điển hình hoặc xuất hiện theo chiều kim đồng hồ
Điện tâm đồ của chứng loạn nhịp tim này có thể biến đổi hơn nhưng thường có độ võng rõ trong các chuyển đạo II, III, và F và độ võng không rõ hoặc hai pha ở chuyển đạo V1.
Tiền kích thích (tâm thất) trên điện tâm đồ
Hội chứng Wolff Parkinson White tiền kích thích bao gồm một phức bộ QRS giãn rộng đi kèm với một khoảng PQ ngắn lại.
Điện tâm đồ thể hiện nhiễu xuyên âm máy điều hòa nhịp tim
Một dụng cụ điện tử tự động theo dõi và điều hòa nhịp tim bằng cách chuyển xung động điện đến kích thích tim khi thấy nó đập qúa chậm
Đau thắt ngực không ổn định: hình ảnh điện tâm đồ
Điện tâm đồ có hình ảnh thiếu máu cơ tim vùng thành trước, và thành bên, không có dấu hiệu nhồi máu, chẩn đoán gần như chắc chắn là đau thắt ngực không ổn định
Ngoại tâm thu nhĩ không dẫn đi thành chùm
QRST có thể rất giống thất đồ nhịp cơ sở, cũng có khi biến mất hẳn, gọi là ngoại tâm thu nhĩ bị block, nguyên nhân do ngoại tâm thu đến quá sớm nên vấp phải tình trạng trơ.
Thuyên tắc phổi lớn trên điện tâm đồ
Những thay đổi sau đây, thường thoáng qua, có thể được nhìn thấy trong một thuyên tắc phổi lớn.
Tăng kali máu trên điện tâm đồ
Kali là ion dương có hàm lượng nhiều nhất trong cơ thể người, tập trung phần lớn ở nội bào, Nó có vai trò quan trọng trong sự dẫn truyền các xung thần kinh thông qua điện thế hoạt động
Nhồi máu cơ tim bán cấp vùng thành trước: hình ảnh điện tâm đồ và hướng xử trí
Bệnh nhân nhập viện giờ thứ 18, kể từ khi bắt đầu đau ngực, vì vậy bệnh nhân này đã quá giới hạn cho tiêu sợi huyết
Điện tâm đồ thể hiện nhịp tim nhanh qua trung gian máy điều hòa nhịp tim
Máy tạo nhịp là một trong những liệu pháp không dùng thuốc thành công nhất và cũng xuất hiện sớm nhất trong xử lý rối loạn nhịp tim. Hàng triệu máy tạo nhịp đã đuợc ghép.
Nhịp nhanh thất trên điện tâm đồ
Nó có thể là một nhịp tim đe dọa tính mạng và yêu cầu chẩn đoán và điều trị nhanh chóng, Các tín hiệu điện trong thất bất thường, can thiệp với các tín hiệu điện từ nút xoang nhĩ.
Viêm màng ngoài tim cấp trên điện tâm đồ
Sau ba tuần ST hạ xuống, T dẹt rồi âm, Khi có dịch, Thêm dấu hiệu điện thế thấp, Khi co thắt: P rộng, có móc và có rối loạn nhịp tim, nhất là rung nhĩ, có thể có điện thế thấp
Block nhĩ thất cấp hai Mobitz I (Wenckebach) trên điện tâm đồ
Block nhĩ thất cấp II có một số xung động từ trên nhĩ không dẫn truyền được xuống thất, trên điện tâm đồ thấy có một số sóng P không có phức bộ QRS đi theo.
Cử động run cơ tạo hình ảnh điện tâm đồ
Hình ảnh điện tâm đồ có đường gấp khúc hoặc rung động từng chỗ của đường đẳng điện, có chỗ chênh hẳn ra khỏi đường đẳng điện hoặc đường đẳng điện uấn lượn.
Phì đại tâm thất phải và trái (hai thất) trên điện tâm đồ
Kết hợp phì đại hai tâm thất: Phì đại tâm thất phải (trục lệch phải và biên độ của sóng R > sóng S ở chuyển đạo V1) và phì đại tâm thất trái (biên độ sóng R > 21 mm ở chuyển đạo aVF).
Ngoại tâm thu nhĩ dẫn truyền lệch hướng trên điện tâm đồ
Ngoại tâm thu trên thất, thường là ngoại tâm thu nhĩ, với đặc điểm, Sóng P phảy đến sớm, có thể đến sớm chồng cả lên T của nhát bóp trước, Sóng P phảy thường là biến dạng, Có thể đứng trước QRST phảy, đứng sau hay mất hút.
Block nhánh trái sau và block nhánh phải
Đối với tâm thất trái và phải co bóp cùng một lúc, một xung điện phải di chuyển xuống nhánh bó his bên phải và trái cùng một tốc độ, Nếu có block một trong các nhánh.
