- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm
- Viêm phổi do phế cầu
Viêm phổi do phế cầu
Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Ho, nhiều đờm, sốt, cơn rét run, khó thở, điểm đau thành ngực.
Hình ảnh đông đặc trên X quang.
Nhuộm đờm theo phương pháp gram thấy song cầu khuẩn gram (+) hình dao bầu.
Phế cầu là nguyên nhân phổ biến nhất gây viêm phổi do vi khuẩn sinh mủ mắc phải ngoài bệnh viện. Các yếu tố thuận lợi là nghiện rượu, nhiễm HIV, cắt lách, bệnh hồng cầu liềm và các bệnh máu ác tính. Tử vong còn cao ở người nhiều tuổi, trong thể bệnh tổn thưong lan rộng nhiều thùy, khi có hạ 02 máu nặng, nhiễm khuẩn máu hoặc khi có biến chứng ngoài phổi.
Các triệu chứng và dấu hiệu
Bệnh diễn biến điển hình trong thời gian vài ngày. Bệnh nhân đến khám vì sốt cao, ho nhiều đờm, đôi khi có ho ra máu hoặc có điểm đau thành ngực (giúp phân biệt với viêm phổi do mycoplasma hoặc viêm phổi do pneumocystis). Rét run thường xẩy ra trong mấy giờ đầu, nhưng sau đó thường biến mất. Tiếng thổi ống có thể là một dấu hiệu sớm.
Biểu hiện cận lâm sàng
Cổ điển thì viêm phổi do phế cầu là viêm phổi thùy có hình ảnh đông đặc và đôi khi có tràn dịch màng phổi. Có thể thấy các mảng do thâm nhiễm.
Thường phải xét nghiệm đờm bằng nhuộm gram. Nếu mẫu bệnh phẩm lấy đúng kỹ thuật (< 10 tế bào biểu mô và > 25 bạch cầu đa nhân trung tính soi dưới vi trường phóng đại lớn) sẽ thấy được song cầu khuẩn gram (+) trong 80 - 90% trường hợp. Cấy đờm thường có độ nhậy thấp hơn nhuộm gram và hay có dương tính giả. Cấy máu có thể (+) trong 25% trường hợp thông thường và có thể cao hơn nhiều ở người nhiễm HIV.
Biến chứng
Hay gặp tràn dịch màng phổi (do giao cảm) và có thể gây sốt dai dẳng hoặc tái phát. Thường không cần điều trị đặc hiệu. Viêm mủ màng phổi gặp < 5% trường hợp, và được phân biệt với tràn dịch do giao cảm nói trên khi nhuộm gram dịch màng phổi thấy có song cầu gram (+) hoặc cấy có mọc vi khuẩn này. Viêm màng ngoài tim do phế cầu hiếm gặp, nhưng có thể gây chèn ép tim cấp. Viêm khớp mủ do phế cầu cũng hiếm gặp. Viêm nội tâm mạc do phế cẩu thường thấy ở van động mạch chủ và phối hợp với viêm màng não hay viêm phổi phế cầu. Bệnh cảnh điển hình là suy tim sớm và các ổ tắc mạch nhiều nơi.
Điều trị
Các biện pháp đặc hiệu
Trong viêm phổi thông thường không gây biến chứng (P02 > 600 mmHg, không có bệnh lý khác, tổn thương một thùy đơn độc và không có biểu hiện ngoài phổi), có thể điều trị ngoại trú bằng penicillin liều 500 mg, uống ngày 4 lần, trong 7 - 10 ngày. Đối với người bị dị ứng penicillin, có thể dùng các thuốc sau: erythromycin 500mg, uống 4 lần mỗi ngày; bactrim 1 viên liều lớn (chứa 320mg trimethoprim và 1600mg sulfamethoxazol) ngày uống 2 viên; azithromycin ngày đầu 500mg và 4 ngày sau mỗi ngày 1 lần 250mg. Cần theo dõi sát tình trạng tiến triển tốt (đỡ ho, hạ sốt trong vòng 2 - 3 ngày) vì phế cầu có thẻ kháng penicillin hoặc các thuốc khác. Nếu bệnh không đỡ, thường là do vi khuẩn kháng thuốc thì nên cần nhập viện điều trị nội trú.
Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần. Có thể dùng procain penicillin liều thấp 600.00 đơn vị tiêm bắp ngày 2 lần, nhưng vì có khoảng 10% là chủng kém nhậy hoặc khằng thuốc, nên người ta khuyên nên tiếm tĩnh mạch liều cao cho đến khi có kết quả kháng sinh đồ. Nếu bệnh nhân bị dị ứng nhẹ với penicillin (không có sốc phản vệ), có thể tiêm bắp hoặc tĩnh mạch cefazolin 500mg ngày 3 lần. Trong trường hợp dị ứng nặng với penicillin hoặc cephalosporin hay nhiễm khuẩn do chủng vi khuẩn kháng mạnh với thuốc penicillin (nồng độ ức chế tối thiểu MIC > 1µg/ml), cần dùng vancomycin liều 30mg/kg/ngày, tối đa là 2g/ngày chia 2 lần tiêm tĩnh mạch. Có thể dùng trimethoprim - sulfamethoxazol tĩnh mạch, với liều 10mg/kg/ngày trimethoprim, chia 3 lần trong ngày.
Điều trị biến chứng
Tràn dịch màng phổi xuất hiện sau khi bắt đầu điều trị kháng sinh thường là vô khuẩn, nên không cần chọc dò màng phổi nếu bệnh nhân đỡ. Chỉ chọc dò ở người bệnh có tràn dịch trước khi bắt đầu điều trị kháng sinh ở người có sốt cao hoặc không đỡ sốt sau 3 - 4 ngày điều trị kháng sinh. Nếu có vi khuẩn trong dịch màng phổi, có thể phải đặt ông dẫn lưu.
Nếu nghi ngờ có tràn dịch màng tim, cần khám siêu âm tim. Nếu bệnh nhân có tràn dịch màng tim nhưng đáp ứng tốt với điều trị thì chỉ dẫn chống đau bằng indomethacin 50mg ngày 3 lần. Nếu bệnh nhân không đỡ, dịch màng tim tăng lên hoặc có triệu chứng chèn ép tim cấp, cần chọc dò màng tim, và dẫn lưu nếu có dịch nhiễm khuẩn, bằng cách hút qua kim loại đặt ống dẫn lưu, hay mở cửa sổ màng tim, hay cắt rộng màng tim nếu có nhiều nguy cơ dày dính màng tim gây viêm màng tim co thắt.
Viêm nội tâm mạc cần được điều trị bằng 24 triệu đơn vị penicillin G (hoặc vancomycin nếu dị ứng với penicillin) hàng ngày, trong 3 - 4 tuần. Suy tim nhẹ có thể chỉ cần dùng digoxin và lợi niệu. Nhưng nếu có suy tim nặng hơn thì cần phải thay van, nhất là nếu có nhiều ổ tắc mạch hoặc thấy có khối sùi lớn trên siêu âm.
Phế cầu kháng penicillin
Tỷ lệ phế cầu kháng penicillin (khi nồng độ ức chế tối thiểu MIC > 0,1 µg/ml) đang tăng lên ở Hoa Kỳ, tới khoảng 15% các chủng phân lập được trong máu. Vì vậy, tất cả các chủng phân lập được từ máu hoặc dịch não tủy đều phải được làm kháng sinh đồ bằng thử nghiệm đơn giản trên đĩa có 1 µg oxacillin. Các chủng phế cầu có mức kháng vừa phải (penicillin MIC > 0,1 µg/ ml nhưng < 1 µg/ml) thường có thể điều trị khỏi bằng penicillin liều cao. Trừ viêm màng não mủ, còn các chủng kháng thuốc manh (MIC > 1 µg/ml) vẫn có thể điều trị khỏi bằng penicillin liều cao. Tuy nhiên một số tác giả đề nghị nên dùng ceftriaxon 2g một lần mỗi ngày hoặc cefotaxim 3g mỗi lần ngày 3 lần, hoặc vancomycin 1g mỗi lần, ngày 2 lần, nhất là ở người có suy giảm miễn dịch, vì các thuốc này tác dụng mạnh hơn penicillin khi thử trên ống nghiệm, và nồng độ kháng sinh trong máu so với MIC có lợi hơn. Những chủng phế cầu kháng penicillin, có thể kháng với nhiều thuốc khác như erythromycin, azithromycin, clarithromycin, chloramphenicol, trimethoprim - sulfamethoxazol; vì vậy, cần thử kháng sinh đồ trước khi dùng các thuốc này.
Bài viết cùng chuyên mục
Sốt Q
Viêm nội tâm mạc ít gặp nhưng lại là thể nặng của nhiễm Coxiella và liên quan với tình trạng tổn thương miễn dịch, việc sống ở vùng thành thị, uống sữa tươi.
Bệnh Lyme
Căn bệnh này, được đặt tên theo thị trấn old Lyme, Connecticut, do xoắn khuẩn Borrelia burgdoíeri gây nên, lây truyền cho người qua ve bọ ixodid, một bộ phận của phức hệ Ixodes ricinus.
Các loại bệnh do Campylobacte gây ra
C. fetus gây bệnh toàn thân, thậm chí có thể gây tử vong như nhiễm khuẩn huyết tiên phát, viêm nội tâm mạc, viêm màng não, áp xe khu trú.
Nhiễm khuẩn da và mô mềm do tụ cầu vàng
Viêm da do tụ cầu vàng thường khởi đầu quanh một hay nhiều ổ viêm nang lông, và có thể khu trú để tạo thành nhọt hoặc lan rộng đến vùng da lân cận và tới các mô sâu dưới da tạo thành ung nhọt lớn.
Nhiễm khuẩn do Moraxeila catarrhalis
Vi khuẩn này thường cư trú tại đường hô hấp, nên phân biệt giữa gây bệnh và bình thường là rất khó. Khi phân lập được đa số là vi khuẩn này, cần điều trị tiêu diệt chúng.
Sốt vàng
Có thể khó chẩn đoán phân biệt giữa sốt vàng và viêm gan, sốt rét, bệnh do leptospiraa, Dengue và các sốt xuất huyết khác nếu chỉ dựa trên biểu hiện lâm sàng đơn thuần.
Sốt phát ban thành dịch do chấy rận (do rickettsia)
Những yếu tố làm bệnh dễ lây truyền là sống đông người, chật chội, hạn hán, chiến tranh hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào chấy rận nhiều
Vết thương do người và xúc vật cắn
Vi khuẩn gây nhiễm khuẩn các vết cắn phụ thuộc vào súc vật cắn và thời điểm nhiễm khuẩn vết thương sau khi bị cắn, Pasteunrella multocida gây nhiễm khuẩn vết thương do chó và mèo cắn rất sớm
Nhiễm khuẩn do liên cầu ngoài nhóm A
Liên cầu viridans là nhóm không gây tan máu, hoặc gây tan máu kiểu α (tức là gây vùng tan máu màu xanh lá cấy trên đĩa thạch) và là thành phần của vi khuẩn chí bình thường ở miệng.
Bệnh dại
Bệnh dại hầu hết là tử vong, những người sống sót có thể là do nhiễm virus giống dại. Người thầy thuốc đối diện với vấn đề thường gặp nhất trên lâm sàng là xử trí bệnh nhân bị động vật cắn.
Định hướng chẩn đoán và xử trí sốt không rõ nguyên nhân
Bệnh Still, lupus ban đỏ hệ thống, nhiễm cryoglobulin máu, viêm nút đa động mạch là các nguyên nhân tự miễn thường gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhân.
Nhiễm khuẩn da do liên cầu
Đối với những bệnh nhân có dấu hiệu toàn thân nặng hoặc bệnh phân bị viêm tổ chức tế bào da ở mặt, cần dùng kháng sinh đường toàn thân.
Ỉa chảy ở người du lịch
Tránh dùng thức ăn và nguồn nước để lạnh dễ bị nhiễm bẩn ở những người du lịch tới các nước đang phát triển nơi mà bệnh ỉa chảy nhiễm khuẩn đang là dịch lưu hành.
Quai bị
Nhậy cảm đau vùng mang tai và vùng mặt tương ứng phù nề là dấu hiệu thực thể hay gặp nhất. Đôi khi sưng ở một tuyến giảm hoàn toàn trước khi tuyến kia bắt đầu sưng.
Bệnh do Nocardia
Bệnh có thể khuếch tán đến bất cứ bộ phận nào trong cơ thể. Áp xe não và các cục dưới da là hay gặp nhất, nhưng chỉ gặp ở người bị suy giảm miễn dịch.
Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch
Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.
Bệnh do virus cự bào
Biểu hiện bằng hội chứng vàng da sơ sinh, gan lách to, giảm tiểu cầu, calci hóa hệ thống thần kinh trung ương ở vủng quanh não thất, chậm phát triển tâm thần, mất khả năng vận động, xuất huyết.
Nhiễm khuẩn do vi khuẩn lao
Vì khi bắt đầu điều trị thường chưa có kết quả kháng sinh đồ, nên thường phải dựa vào độ mạnh của thuốc hoặc số liệu về tỷ lệ kháng thuốc trong cộng đồng hoặc trong quần thể bệnh nhân.
Sốt do chuột cắn
Sốt do chuột cắn cần được phân biệt với viêm hạch và phát ban do chuột cắn trong sốt do Streptobacillus gây nên. Về mặt lâm sàng, viêm khớp và đau cơ nặng.
Bệnh do Brucella
Khởi phát thường đột ngột: sốt, rét run, toát mồ hôi nhưng thông thường chỉ khởi phát âm ỉ. Bệnh nhân đến khám sau nhiều tuần có mệt mỏi, sút cân, sốt nhẹ, ra mồ hôi, mệt nhanh dù làm việc nhẹ.
Dengue: bệnh virus toàn thân
Dengue là bệnh có sốt tự khỏi không đặc hiệu; biểu hiện bệnh rất thay đổi, có thể từ nhiễm virus không có triệu chứng tới xuất huyết nặng và sốc đột ngột gây tử vong.
U hạt vùng bẹn
Đó là những cục thâm nhiễm tương đối ít đau và nhanh chóng bong ra, để lại các vết loét nông, bờ rõ rệt, nền là tổ chức hạt mủn, màu đỏ như thịt bò.
Viêm tủy xương do tụ cầu vàng
Có thể là nhiễm khuẩn cấp tính với cầc triệu chứng, khu trú và tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân. Nhưng cũng có thể tiến triển âm ỉ, chỉ thấy đau mơ hồ.
Nhiễm Adenovirus
Những bệnh nhân ghép gan bị nhiễm virus có xu hướng phát triển viêm gan typ 5, còn những người ghép tủy xương và ghép thận có xu hướng viêm phổi phát triển hoặc viêm bàng quang xuất huyết.
Sốt phát ban thành dịch do bọ chét
Ban ở dạng dát sẩn tập trung ở thân mình và mờ đi tương đối nhanh, ít gặp bệnh nhân tử vong và thường chỉ xảy ra ở người già.
