Sốt vàng

2016-03-05 06:05 PM

Có thể khó chẩn đoán phân biệt giữa sốt vàng và viêm gan, sốt rét, bệnh do leptospiraa, Dengue và các sốt xuất huyết khác nếu chỉ dựa trên biểu hiện lâm sàng đơn thuần.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán

Có vùng dịch tễ (ở vùng nhiệt đới của miền Trung và Nam Mỹ, châu Phi nhưng không có ở châu Á).

Khởi phát đột ngột bằng đau đầu dữ dội, đau chân và nhịp tim nhanh.

Giai đoạn thuyên giảm ngắn (1 ngày), tiếp sau đó xuất hiện nhịp tim chậm, hạ huyết áp, vàng da, có xu hướng xuất huyết.

Protein niệu, giảm bạch cầu, bilirubin niệu, bilirubin máu tăng.

Nhận định chung

Sốt vàng là một bệnh do virus (arbovirus nhóm B, togavirus) lây truyền do muỗi Aedes và muỗi ở rừng rậm nhiệt đới đốt. Bệnh chỉ xuất hiện ở châu Phi và Nám Mỹ (vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới), nhưng bệnh cũng có thể lan tới vùng ốn đới vào mùa ấm. Muỗi truyền bằng cách: đầu tiên đốt người bị bệnh, virus nhân lên trong cơ thể muỗi, rồi sau đó muỗi đốt người khác. Thời gian ủ bệnh ở người từ 3 - 6 ngày.

Người lớn và trè em có khả năng mắc bệnh ngang nhau, mặc dù tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới trưởng thành là cao nhất vì tính chất công việc của họ.

Các triệu chứng và dấu hiệu

 

Thể nhẹ

Bệnh nhân có biểu hiện mệt mỏi, đau đầu, sốt, đau sau hốc mắt, buồn nôn, nôn, sợ ánh sáng và có thể có nhịp tim chậm.

 

Thể nặng

Khoảng 15% số người nhiễm virus bị bệnh nặng. Đầu tiên, triệu chứng cũng giống thể nhẹ, nhưng giai đoạn thuyên giảm ngắn khoảng 3 ngày; tiếp đến là biểu hiện của giai đoạn nhiễm độc, gồm sốt, nhịp tim chậm (dấu hiệu Faget), tụt huyết áp, vàng da, xuất huyết (ở mũi, miệng, tiêu hóa). Bệnh nhân có thể mê sảng rồi tiến triển tới hôn mê.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Giảm bạch cầu, mặc dù chưa có giảm ở lúc khởi phát. Có protein trong nước tiểu, đôi khi tới 5 - 6g/l và hết hoàn toàn khi hồi phục. Xét nghiệm chức năng gan bất thường và thời gian prothrombin có thể tăng. Chẩn đoán huyết thanh học bằng cách chỉ ra kháng thể tăng gấp 4 lần hoặc hơn bằng phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu, kết hợp bổ thể hoặc phản ứng trung hòa. Xét nghiệm miễn dịch men bắt giữ tìm IgM (EIA- enzyme immuno assay) giúp chẩn đoán nhanh và đặc hiệu.

Chẩn đoán phân biệt

Có thể khó chẩn đoán phân biệt giữa sốt vàng và viêm gan, sốt rét, bệnh do leptospiraa, Dengue và các sốt xuất huyết khác nếu chỉ dựa trên biểu hiện lâm sàng đơn thuần. Việc chẩn đoán cần dựa vào xét nghiệm.

Phòng bệnh

Phòng bệnh bằng cách kiểm soát muối. Vaccin virus sống có hiệu quả cao, an toàn và nên dùng cho những người lớn có khả năng miễn dịch mà đến hoặc sống tại vùng có dịch tễ của bệnh. Phụ nữ có thai không nên dùng vaccin.

Điều trị

Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Mục đích là điều trị triệu chứng và biến chứng.

Tiên lượng

Ở thể nặng, tỷ lệ tử vong cao và thường xảy ra nhất vào ngày thứ 6 đến ngày thứ 10. Ở những người sống sót, nhiệt độ trở về bình thường ở ngày thứ 7 hoặc thứ 8. Tiên lượng bất cứ trường hợp nào cũng cần thận trọng ở giai đoạn đầu, bởi vì nhiều trường hợp diễn biến xấu đột ngột. Những trường hợp nấc khó điều trị, ỉa phân đen, chất nôn đen nhiều và vô niệu là những dấu hiệu tiên lượng xấu. Giai đoạn hồi phục kéo dài, người bệnh suy nhược trong 1 - 2 tuần.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh do Tularemia

Sốt, đau đầu và buồn nôn khởi phát đột ngột. Tại chỗ vết thương, nơi đường vào nổi sẩn hồng nhưng nhanh chóng trở thành vết loét. Hạch vùng sưng to, đau và có thể bị mưng mủ.

Các bệnh do nấm Actinomyces

Đây là các vi khuẩn dạng sợi phân nhánh gram + kỵ khí, có đường kính khoảng 1µm và có thể phân chia thành dạng trực khuẩn. Khi vào trong các mô của vết thương.

Chlamydia psittaci và bệnh sốt vẹt

Bệnh thường khởi phát nhanh, có sốt, ớn lạnh, đau cơ, ho khan và đau đầu. Các dấu hiệu bệnh như mạch nhiệt phân ly, gõ phổi đục và nghe phổi có ran.

Những tác nhân gây bệnh giống virus có thời gian tiềm tàng kéo dài

Chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu mà chỉ có phòng bệnh bằng cách tránh lây nhiễm từ tổ chức não bị bệnh, điện cực, dụng cụ phẫu thuật thần kinh hoặc tránh ghép giác mạc.

Cúm

Có thể dùng vaccin cho những người nhiễm HIV mà vẫn an toàn. Mối lo lắng về sự hoạt hóa nhân lên của virus HIV do các yếu tố gây miễn dịch có thể là quá mức cần thiết.

Nhiễm virus coxsackie

Những xét nghiệm thông thường không thấy có bất thường đặc trưng của bệnh. Kháng thể bằng phản ứng trung hòa xuất hiện trong giai đoạn hồi phục của bệnh.

Ngộ độc Clostridium botulinum

Đây là bệnh ngộ độc thức ăn do ăn phải độc tố có sẵn thường do các typ A, B hoặc E của vi khuẩn Clostridium botulinum, đây là một trực khuẩn có nha bào, kỵ khí tuyệt đối, có ở khắp nơi trong đất.

Virus herpes typ 1 và 2

Các virus herpes typ 1 và 2 chủ yếu gây tổn thương ở vùng miệng tiếp đến là vùng sinh dục. Tỷ lệ huyết thanh dương tính của cả hai nhóm này tăng theo lửa tuổi, riêng đối với typ 2 tăng theo hoạt động tình dục.

Bệnh do vi khuẩn Listeria

Vi khuẩn huyết, có hoặc không có triệu chứng nhiễm khuẩn máu ở trẻ sơ sinh hoặc ở người lớn có suy giảm miễn dịch. Bệnh biểu hiện dưới dạng sốt không rõ nguồn gốc.

Các bệnh do lậu cầu khuẩn

Ở nam giới, lúc đầu có đái nóng, và dịch trắng hoặc ngà ở ngay đầu. Vài ba ngày sau, đái đau rõ dần và dịch tiết quy đầu vàng sẫm hơn đặc như kem, nhiều và có thể lẫn máu.

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương

Nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung ương có thể được phân thành vài thể bệnh, thông thường có thể dễ phân biệt các thể bệnh với nhau nhờ xét nghiệm dịch não tủy, đây là bước đầu tiên để chẩn đoán căn nguyên.

Nhiễm virus Poxvirus

Vaccin bệnh đậu bò có khả năng loại trừ một phần bệnh đậu mùa. Vaccin thông thường chỉ được dùng cho người ở phòng xét nghiệm vì người này phải tiếp xúc với virus.

Bệnh do Chlamydia pneumoniae chủng TWAR

Chlamydia pneumoniae gây viêm phổi, viêm phế quản và có mối liên quan với bệnh mạch vành qua dịch tễ huyết thanh học. Bệnh cảnh viêm phổi kiểu không điển hình.

Hội chứng sốc nhiễm độc tụ cầu

Đặc điểm của hội chứng sốc nhiễm độc là sốt cao đột ngột, nôn, tiêu chảy kèm theo đau họng, mệt lử và đau đầu. Trong những trường hợp nặng có thể có các biểu hiện như hạ huyết áp, suy thận, suy tim.

Vãng khuẩn huyết do Salmonella

Đôi khi nhiễm khuẩn do salmonella có thể biểu hiện dưới dạng sốt kéo dài hoặc sốt tái phát có kèm vi khuẩn trong máu và có các ổ nhiễm khuẩn ở xương, khớp.

Sốt phát ban thành dịch do chấy rận (do rickettsia)

Những yếu tố làm bệnh dễ lây truyền là sống đông người, chật chội, hạn hán, chiến tranh hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào chấy rận nhiều

Hoại tử sinh hơi

Bệnh thường khởi phát đột ngột, đau tăng nhanh tại vùng bị bệnh, hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, sốt không tương xứng với mức độ nặng.

Nhiễm khuẩn ở những người tiêm chích

Các bệnh lây truyền qua đường tình dục không liên quan trực tiếp đến tiêm chích nhưng qua thực tế quan hệ tình dục để trao đổi ma tuý đã làm tăng tần suất các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Tạo miễn dịch khuyến cáo cho những người du lịch

Khi các đối tượng yêu cầu các bác sĩ cho biết thông tin và tiêm vaccin để đi du lịch, toàn bộ lịch tiêm chủng của họ nên được xem xét và cập nhật.

Bệnh uốn ván

Triệu chứng đầu tiên là đau và tê vùng vi khuẩn xâm nhập rồi tiếp đến là co cứng cơ vùng lân cận. Tuy nhiên, thường gặp triệu chứng đầu tiên đưa bệnh nhân đến khám là cứng hàm, cứng cổ, khó nuốt và kích thích.

Sốt do chuột cắn

Sốt do chuột cắn cần được phân biệt với viêm hạch và phát ban do chuột cắn trong sốt do Streptobacillus gây nên. Về mặt lâm sàng, viêm khớp và đau cơ nặng.

Bệnh than

Khi bệnh biểu hiện trên da, thường thấy các ban đỏ tại vùng bị thương và nhanh chóng chuyển sang các mụn phỏng màu hồng rồi màu đen ở giữa. Vùng xung quanh phù nề và nổi mụn phỏng.

Sốt do ve Colorado

Cần phải chẩn đoán phân biệt bệnh sốt do ve Colorado với các bệnh: cúm, nhiễm Rickettsia rickettsii, vả những bệnh sốt có giảm bạch cầu cấp tính khác.

Định hướng chẩn đoán và xử trí sốt không rõ nguyên nhân

Bệnh Still, lupus ban đỏ hệ thống, nhiễm cryoglobulin máu, viêm nút đa động mạch là các nguyên nhân tự miễn thường gặp nhất gây sốt không rõ nguyên nhân.

Viêm phổi do phế cầu

Những bệnh nhân bị bệnh nặng hoặc có các bệnh khác kèm theo cần điều trị nội trú bằng thuốc tiêm, penicillin G, 2 triệu đơn vị môi lần, ngày 6 lần.