Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)

2016-05-26 10:28 AM

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Sán lá lớn đường ruột, Fasciolopsis buski, là một loài ký sinh thường gặp của người và lợn ở Trung và Nam Trung Hoa, Đài Loan, Đông Nam Á, Indonesia, Đông Ấn Độ và Bangladesh. Khi trứng sán thải theo phân gặp nước, trứng nở thành các ấu trùng bơi tự do rồi xâm nhập và phát triển trong cơ thể ốc. Các vĩ ấu trùng sau đó thoát ra khỏi ốc và đóng kén trên các cây rau cỏ mọc dưới nước. Người mắc bệnh khi ăn các cây rau này dưới dạng sống (thường là cây dẻ nước, măng tre, hoặc củ ấu nước). Sán lá trưởng thành (kích thước 2 - 7,5 cm) phát triển trong khoảng 3 tháng, ký sinh trong ruột non, bám vào niêm mạc ruột hoặc lặn trong dịch nhầy. Số lượng sán dao động từ vài con đến vài ngàn con.

Sau giai đoạn ủ bệnh kéo dài 2 - 3 tháng, các biểu hiện kích thích đường ruột xuất hiện ở tất cả các thể bệnh, trừ thể nhẹ. Các triệu chứng nhiễm sán nặng bao gồm buồn nôn, chán ăn, đau thượng vị, và ỉa chảy, đôi khi xen kẽ với táo bón. Cổ trướng và phù mặt cùng phù chân có thể xuất hiện ở giai đoạn muộn hơn; cơ chế sinh lý học của biểu hiện này còn chưa rõ. Tắc ruột, liệt ruột, gầy mòn và tình trạng suy kiệt.

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp. Hiện không có xét nghiệm huyết thanh học. Do sán trưởng thành chỉ sống được 6 tháng, chẩn đoán ít có khả năng khi đã đi ra khỏi vùng dịch tễ một thời gian dài.

Thuốc điều trị lựa chọn đầu tiên là praziquantel, liều 25 mg/kg, ba lần/ngày, 1 ngày duy nhất. Thuốc thay thế là nicloxamid, liều giống như điều trị sán dây nhưng uống cách nhật cho đủ ba liều.

Trong bệnh sán nhẹ - ngay cả khi không điều trị - tiên lượng rất tốt; nói chung, bệnh tự khỏi trong vòng 1 năm. Trong một vài trường hợp - nhất là ở trẻ em - nhiễm sán nặng cùng với nhiễm độc nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong do gầy mòn hoặc do nhiễm trùng gian phát.

Các danh mục

Chẩn đoán và điều trị y học tuổi già

Tiếp cận bệnh nhân dự phòng và các triệu chứng chung

Chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư

Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ

Chẩn đoán và điều trị bệnh mắt

Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng

Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp

Chẩn đoán và điều trị bệnh tim

Chẩn đoán và điều trị bệnh mạch máu và bạch huyết

Chẩn đoán và điều trị bệnh máu

Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa

Chẩn đoán và điều trị bệnh tuyến vú

Chẩn đoán và điều trị bệnh phụ khoa

Chẩn đoán và điều trị sản khoa

Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp

Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn miễn dịch và dị ứng

Đánh giá trước phẫu thuật

Chăm sóc giai đoạn cuối đời

Chẩn đoán và điều trị bệnh gan mật và tụy

Chẩn đoán và điều trị rối loạn nước điện giải

Chẩn đoán và điều trị bệnh nhân bị bệnh thận

Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ niệu học

Chẩn đoán và điều trị bệnh hệ thần kinh

Chẩn đoán và điều trị bệnh rối loạn tâm thần

Chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết

Chẩn đoán và điều trị rối loạn dinh dưỡng

Chẩn đoán và điều trị bệnh truyền nhiễm

Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán

Chẩn đoán và điều trị các bệnh nhiễm trùng do nấm