Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa

2016-05-29 11:41 PM

Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Giun tóc Trichuris trichiura là một loại ký sinh trùng đường ruột phổ biến ở người, phân bố trên toàn thế giới, nhất là ở các vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới. Mọi lứa tuổi đều có thể nhiễm bệnh, nhưng bệnh hay xảy ra và nặng hơn ở trẻ em. Giun có hình dạng mảnh, dài 30 - 50 mm, đầu trước nhỏ hơn dạng roi ngựa bám vào niêm mạc đại tràng, nhất là ở manh tràng. Trứng giun thải theo phân nhưng sau khi ra đến đất phải mất 2 - 4 tuần ấu trùng mới phát triển để trở nên có khả năng lây nhiễm; vì vậy, không xảy ra lây truyền từ người sang người. Người nhiễm bệnh khi nuốt phải trứng có khả năng lây nhiễm. Ấu trùng nở ra trong ruột non và trưởng thành trong ruột già nhưng không di trú qua các tổ chức.

Triệu chứng và dấu hiệu

Nhiễm giun nhẹ (ít hơn 10000 trứng trên 1 gam phân) đến vừa ít khi gây triệu chứng. Nhiễm giun nặng (30.000 trứng hoặc nhiều hơn trên 1 gam phân) có thể biểu hiện bằng đau bụng, mót rặn, ỉa chảy, trướng bụng, đầy bụng, buồn nôn, nôn, và sụt cân. Sa trực tràng và đi ngoài ra máu hoặc mất máu vi thể mạn tính cũng có thể xuất hiện thường gặp nhất ở trẻ nhỏ suy dinh dưỡng. Đôi khi giun trưởng thành có mặt trong phân. Hiện tượng giun xâm nhập vào ruột thừa và gây viêm ruột thừa ít khi xảy ra.

Các dấu hiệu cận lâm sàng

Chẩn đoán dựa trên việc tìm thấy các trứng đặc trưng và đôi khi, giun trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu ái toan (5 - 20%) thường gặp, trừ các trường hợp nhiễm giun nhẹ. Thiếu máu thiếu sắt nặng có thể xảy ra trong nhiễm giun nặng.

Điều trị

Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel. Không sử dụng thiabendazol, do thuốc không có hiệu quả và có độc tính cao.

Mebendazol

Liều dùng là 100 mg hai lần /ngày sau bữa ăn, trong 3 ngày. Để tác dụng điều trị được tốt hơn, nên nhai viên thuốc trước khi nuốt. Tỷ lệ khỏi bệnh 60 - 80% và cao hơn được thông báo sau một liệu trình điều trị, cùng với việc giảm đáng kể số lượng trứng ở những bệnh nhân còn lại. Đối với các trường hợp nhiễm giun tóc nặng, một liệu trình điều trị dài hơn (tới 6 ngày) hoặc điều trị nhắc lại có thể cần đến. Các tác dụng phụ ở đường tiêu hóa do thuốc ít khi xảy ra. Thuốc có chống chỉ định trong thời kỳ mang thai.

Albendazol

Albendazol uổng liều duy nhất 400 mg có tỷ lệ chữa khỏi 33 - 90%, với số lượng trứng giảm đáng kể ở những người không khỏi. Liều điều trị thích hợp để đạt tỷ lệ khỏi cao hơn trong các trường hợp nhiễm giun vừa tới nặng còn cần được xác định, nhưng một liệu trình điều trị kéo dài 2 - 3 ngày có thể dùng thử nghiệm. Albendazol (hiện đã có ở Hoa Kỳ) không được sử dụng trong thời kỳ mang thai.

Oxantel pamoat

Oxantel pamoat là một hoạt chất tương tự như pyratel pamoat và chỉ tác dụng lên T. trichiura. Tỷ lệ khỏi 57 - 100% đã được thông báo trong một loạt thử nghiệm. Một phác đồ điều trị sử dụng liều 15 mg/kg (gốc) mỗi ngày trong 2 ngày cho những bệnh nhân nhiễm giun mức độ nhẹ và vừa. Đối với những bệnh nhân nhiễm giun nặng, cho liều 10 mg/kg (gôc) mỗi ngày trong 5 ngày: Oxantel không có ở Hoa Kỳ. Tính an toàn của thuốc trong thời kỳ mang thai chưa được xác định.

Bài viết cùng chuyên mục

Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.

Nhiễm coccidium và microsporidia

Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.

Bệnh do Balantidium (balantidiasis)

Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.

Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh

Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.

Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)

Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó

Bệnh do amip

Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.

Bệnh do Trypanosoma châu mỹ

Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.

Bệnh giun móc

Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.

Bệnh ấu trùng di trú nội tạng: bệnh giun toxocara

Phương pháp phòng bệnh ở người tốt nhất là điều trị định kỳ chó con, mèo con, chó và mèo mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, bắt đầu từ 2 tuần sau khi đẻ.

Bệnh do Trypanosoma châu phi

Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.

Nhiễm Leishmania da

Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.

Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp

Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.

Bệnh giun chỉ

Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.

Bệnh do Babesia

Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.

Bệnh giun kim

Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.

Nhiễm giun Angiostrongylus costariensis

Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm sốt, đau và nắn thấy một khối ở hố chậu phải, tăng số lượng bạch cầu và tăng bạch cầu ái toan.

Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)

Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.

Bệnh do nhiễm Giardia

Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.

Bệnh giun chỉ Loa loa

Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.

Nhiễm giun anisakia

Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.

Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)

Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.

Bệnh do Leishmania

Điều trị có khó khăn do các thuốc có độc tính, cần điều trị dài ngày và bệnh nhân thường phải nằm viện. Điều trị lựa chọn là stibogluconat natri; tuy nhiên, tần suất kháng thuốc đang tăng lên ở nhiều nước.

Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)

Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.

Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis

Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.

Bệnh nang túi

Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.