- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh do ký sinh đơn bào và giun sán
- Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa
Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa
Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Giun tóc Trichuris trichiura là một loại ký sinh trùng đường ruột phổ biến ở người, phân bố trên toàn thế giới, nhất là ở các vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới. Mọi lứa tuổi đều có thể nhiễm bệnh, nhưng bệnh hay xảy ra và nặng hơn ở trẻ em. Giun có hình dạng mảnh, dài 30 - 50 mm, đầu trước nhỏ hơn dạng roi ngựa bám vào niêm mạc đại tràng, nhất là ở manh tràng. Trứng giun thải theo phân nhưng sau khi ra đến đất phải mất 2 - 4 tuần ấu trùng mới phát triển để trở nên có khả năng lây nhiễm; vì vậy, không xảy ra lây truyền từ người sang người. Người nhiễm bệnh khi nuốt phải trứng có khả năng lây nhiễm. Ấu trùng nở ra trong ruột non và trưởng thành trong ruột già nhưng không di trú qua các tổ chức.
Triệu chứng và dấu hiệu
Nhiễm giun nhẹ (ít hơn 10000 trứng trên 1 gam phân) đến vừa ít khi gây triệu chứng. Nhiễm giun nặng (30.000 trứng hoặc nhiều hơn trên 1 gam phân) có thể biểu hiện bằng đau bụng, mót rặn, ỉa chảy, trướng bụng, đầy bụng, buồn nôn, nôn, và sụt cân. Sa trực tràng và đi ngoài ra máu hoặc mất máu vi thể mạn tính cũng có thể xuất hiện thường gặp nhất ở trẻ nhỏ suy dinh dưỡng. Đôi khi giun trưởng thành có mặt trong phân. Hiện tượng giun xâm nhập vào ruột thừa và gây viêm ruột thừa ít khi xảy ra.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Chẩn đoán dựa trên việc tìm thấy các trứng đặc trưng và đôi khi, giun trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu ái toan (5 - 20%) thường gặp, trừ các trường hợp nhiễm giun nhẹ. Thiếu máu thiếu sắt nặng có thể xảy ra trong nhiễm giun nặng.
Điều trị
Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel. Không sử dụng thiabendazol, do thuốc không có hiệu quả và có độc tính cao.
Mebendazol
Liều dùng là 100 mg hai lần /ngày sau bữa ăn, trong 3 ngày. Để tác dụng điều trị được tốt hơn, nên nhai viên thuốc trước khi nuốt. Tỷ lệ khỏi bệnh 60 - 80% và cao hơn được thông báo sau một liệu trình điều trị, cùng với việc giảm đáng kể số lượng trứng ở những bệnh nhân còn lại. Đối với các trường hợp nhiễm giun tóc nặng, một liệu trình điều trị dài hơn (tới 6 ngày) hoặc điều trị nhắc lại có thể cần đến. Các tác dụng phụ ở đường tiêu hóa do thuốc ít khi xảy ra. Thuốc có chống chỉ định trong thời kỳ mang thai.
Albendazol
Albendazol uổng liều duy nhất 400 mg có tỷ lệ chữa khỏi 33 - 90%, với số lượng trứng giảm đáng kể ở những người không khỏi. Liều điều trị thích hợp để đạt tỷ lệ khỏi cao hơn trong các trường hợp nhiễm giun vừa tới nặng còn cần được xác định, nhưng một liệu trình điều trị kéo dài 2 - 3 ngày có thể dùng thử nghiệm. Albendazol (hiện đã có ở Hoa Kỳ) không được sử dụng trong thời kỳ mang thai.
Oxantel pamoat
Oxantel pamoat là một hoạt chất tương tự như pyratel pamoat và chỉ tác dụng lên T. trichiura. Tỷ lệ khỏi 57 - 100% đã được thông báo trong một loạt thử nghiệm. Một phác đồ điều trị sử dụng liều 15 mg/kg (gốc) mỗi ngày trong 2 ngày cho những bệnh nhân nhiễm giun mức độ nhẹ và vừa. Đối với những bệnh nhân nhiễm giun nặng, cho liều 10 mg/kg (gôc) mỗi ngày trong 5 ngày: Oxantel không có ở Hoa Kỳ. Tính an toàn của thuốc trong thời kỳ mang thai chưa được xác định.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh do Balantidium (balantidiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.
Bệnh do Toxoplasma
Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.
Bệnh do Babesia
Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.
Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)
Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.
Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh
Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.
Nhiễm leishmania da và niêm mạc (Espundia)
Chẩn đoán thông qua việc xác định các amastigote trong các bệnh phẩm nạo bề mặt tổn thương, lam in mảnh sinh thiết hoặc lát cắt tổ chức, hoặc dịch hút từ các mô.
Bệnh do nhiễm Giardia
Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.
Bệnh giun đũa
Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.
Bệnh giun kim
Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.
Bệnh giun chỉ
Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.
Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.
Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis
Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.
Bệnh giun xoắn
Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.
Bệnh giun chỉ Loa loa
Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.
Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)
Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.
Nhiễm giun anisakia
Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.
Bệnh giun Gnathostoma
Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.
Điều trị và tiên lượng các cơn sốt rét cấp
Sốt rét falciparum nặng yà có biến chứng là một cấp cứu nội khoa cần điều trị nội trú, chăm sóc tích cực và điều trị thuốc sốt rét bắt đầu đương tĩnh mạch càng sớm càng tốt.
Bệnh nang túi
Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.
Nhiễm coccidium và microsporidia
Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.
Bệnh do Trypanosoma châu phi
Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.
Bệnh giun chỉ Onchocera
Ngứa da có thể nặng, dẫn đến xước da và liken hóa; các biểu hiện khác bao gồm biến đổi sắc tố, nổi các nốt sẩn, có vẩy, teo da, sự hình thành các túi da, và viêm nhiễm cấp tính.
Bệnh ấu trùng di trú ở da
Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.
Bệnh giun móc
Nhiễm giun móc, phân bố rộng rãi ở các vùng ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới và gặp lẻ tẻ ở Đông Nam Hoa Kỳ, là do Ancylostoma duodenale và Necator americanus gây nên.
Nhiễm giun Angiostrongylus costariensis
Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm sốt, đau và nắn thấy một khối ở hố chậu phải, tăng số lượng bạch cầu và tăng bạch cầu ái toan.