Bệnh nang chùm

2016-05-26 09:13 PM

Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh do ấu trùng sán echinococcus (bệnh nang sán) ở người là do sự ký sinh của giai đoạn ấu trùng của bốn loài echinococcus, trong đó quan trọng nhất là E. granulosus (bệnh nang túi) và E. multilocularis (bệnh nang chùm). Một số loài ít quan trọng gây đa nang là E. vogeli (bệnh đa nang) và E. oligarthrus, cả hai đều phân bố ở Trung và Nam Mỹ. Nhiễm echinococcus là bệnh của súc vật, trong đó người là vật chủ trung gian cho giai đoạn ấu trùng của sán. Vật chủ cuối cùng là động vật ăn thịt (tất cả đều là họ Ganidae, trừ sư tử) có sán dây trưởng thành trong ruột non; động vật ăn thịt nhiễm bệnh khi ăn phải thể ấu trùng trong mô của vật chủ trung gian. Các vật chủ trung gian, chủ yếu là động vật có vú ăn cỏ, cả người, bị nhiễm bệnh khi nuốt phải trứng sán thải theo phân của động vật ăn thịt. Giai đoạn ấu trùng được gọi là nang nước.

Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng và các động vật gặm nhấm kích thước nhỏ là vật chủ trung gian. Chó nhà và mèo nhà cũng có thể bị nhiễm sán trưởng thành khi ăn các động vật gặm nhâm hoàng dại.

Người nhiễm bệnh khi vô tình nuốt phải trứng sán trong phân cáo hoặc chó. Bệnh nang chùm ở người được thông báo từ một số vùng Trung Âu, hầu hết các vùng Siberia, Bắc Nhật Bản, Tâỳ Bắc Canada, và Tây Alaska.

Các thông báo gần đây cho thấy vùng phân bố bệnh ở cựu thế giới rộng hơn về phía Nam, tới Iran, Bắc Ấn Độ và Trung Quốc. Ngày càng có nhiều ca bệnh được thông báo từ vùng trung tâm của Bắc Mỹ (mười một bang của Hoa Kỳ và bốn tỉnh Canada). Vị trí tiên phát của các nang chùm là ở gan, nơi các nang phát triển tại chỗ hoặc di căn đến các tổ chức khác. Khối nang chứa ấu trùng có ranh giới không rõ rệt và tiến triển giống như ung thư; nang xâm lấn và tăng sinh không giới hạn bằng các chồi mọc ra bên ngoài từ màng mầm, tạo ra các nang nhỏ giống như các phế nang. Nhiễm bệnh ở phổi ít gặp, thường xuất hiện khi nang phát triển trực tiếp từ gan. Chụp X quang cho thấy gan to, có các vùng sáng đặc hiệu nằm rải rác có các vòng vôi hóa 4 mm bao quanh. Các xét nghiệm huyết thanh học cũng giống như trong bệnh nang túi và không phân biệt được giữa các loài sán. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ cả khối ấu trùng nếu có thể thực hiện được, phối hợp với điều trị thuốc. 97% số bệnh nhân có khối nang không thể phẫu thuật được chết trong vòng 10 năm. Điều trị thuốc kéo dài (từ 5 năm tới suốt đời) bằng albendazol (ưu tiên) (800 mg/ngày chia nhiều lần) hoặc mebendazol (40 mg/ kg/ngày chia nhiều lần trong bữa ăn có nhiều chất béo); các thuốc này ức chế sự phát triển của mầm sán và kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân, nhưng tổ chức ấu trùng sán không bị phá hủy hoàn toàn.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh do Babesia

Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.

Bệnh nang túi

Khối u nang không có mạch máu trong gan, phổi hoặc hiếm hơn, trong xương, não, hoặc các cơ quan khác, phát hiện qua các thăm dò hình ảnh.

Nhiễm giun anisakia

Nhiễm giun anisakia xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng đại bộ phận các ca bệnh được thông báo từ Nhật Bản và Hà Lan, một vài ca ở Hoa Kỳ, Scandinavia, Chile, và một số nước ăn cá khác.

Bệnh giun Gnathostoma

Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.

Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)

Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.

Bệnh giun rồng

Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.

Sốt rét

Ngay từ khi khởi phát hoặc trong quá trình bệnh, các cơn sốt có thể biểu hiện tính chu kỳ cách nhật trong sốt rét vivax, oval, hoặc falciparum, hay tính chu kỳ cách hại ngày trong sốt rét malariae.

Bệnh ấu trùng di trú ở da

Chẩn đoán dựa trên hình dạng đặc trưng của các tổn thương và biểu hiện tăng bạch cầu ái toan thường đi kèm theo. Sinh thiết thường không được chỉ định.

Nhiễm coccidium và microsporidia

Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.

Bệnh do Toxoplasma

Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.

Bệnh do Leishmania

Điều trị có khó khăn do các thuốc có độc tính, cần điều trị dài ngày và bệnh nhân thường phải nằm viện. Điều trị lựa chọn là stibogluconat natri; tuy nhiên, tần suất kháng thuốc đang tăng lên ở nhiều nước.

Nhiễm Leishmania da

Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.

Bệnh giun tóc: bệnh giun roi ngựa

Bệnh nhân nhiễm giun nhẹ không triệu chứng không cần phải điều trị. Trường hợp nhiễm giun nặng hơn hoặc có triệu chứng, điều trị mebendazol, albendazol hoặc oxantel.

Nhiễm sán dây

Hiện chưa có các xét nghiệm huyết thanh học cho các bệnh nhiễm sán dây, xét nghiệm ELISA phát hiện các kháng nguyên trong phân hiện đang được nghiên cứu.

Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh

Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.

Bệnh do Trypanosoma châu mỹ

Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.

Bệnh giun xoắn

Bệnh ở người xuất hiện lẻ tẻ hoặc thành các vụ dịch nhỏ. Nhiễm bệnh thường xảy ra khi ăn phải các ấu trùng sống đóng kén trong thịt lợn hoặc các sản phẩm từ thịt lợn còn sống hoặc chưa được nấu chín.

Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)

Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó

Bệnh do ấu trùng sán lợn (cysticercus)

Chẩn đoán phân biệt bao gồm u lao, u, bệnh nang nước, viêm mạch, các bệnh nhiễm nấm mạn tính, bệnh do toxoplasma, và các bệnh nhiễm ký sinh trùng khác, và giang mai thần kinh.

Bệnh giun kim

Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.

Bệnh giun đũa

Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.

Bệnh do amip

Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.

Bệnh do Trypanosoma châu phi

Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.

Bệnh ấu trùng di trú nội tạng: bệnh giun toxocara

Phương pháp phòng bệnh ở người tốt nhất là điều trị định kỳ chó con, mèo con, chó và mèo mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, bắt đầu từ 2 tuần sau khi đẻ.

Bệnh giun chỉ

Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.