Bệnh nang chùm
Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh do ấu trùng sán echinococcus (bệnh nang sán) ở người là do sự ký sinh của giai đoạn ấu trùng của bốn loài echinococcus, trong đó quan trọng nhất là E. granulosus (bệnh nang túi) và E. multilocularis (bệnh nang chùm). Một số loài ít quan trọng gây đa nang là E. vogeli (bệnh đa nang) và E. oligarthrus, cả hai đều phân bố ở Trung và Nam Mỹ. Nhiễm echinococcus là bệnh của súc vật, trong đó người là vật chủ trung gian cho giai đoạn ấu trùng của sán. Vật chủ cuối cùng là động vật ăn thịt (tất cả đều là họ Ganidae, trừ sư tử) có sán dây trưởng thành trong ruột non; động vật ăn thịt nhiễm bệnh khi ăn phải thể ấu trùng trong mô của vật chủ trung gian. Các vật chủ trung gian, chủ yếu là động vật có vú ăn cỏ, cả người, bị nhiễm bệnh khi nuốt phải trứng sán thải theo phân của động vật ăn thịt. Giai đoạn ấu trùng được gọi là nang nước.
Bệnh nang chùm là bệnh nhiễm giai đoạn ấu trùng của sán E. chinococcus multilocularis, chỉ phân bố ở Bắc bán cầu. Vòng đời của sán bao gồm cáo là vật chủ cuối cùng và các động vật gặm nhấm kích thước nhỏ là vật chủ trung gian. Chó nhà và mèo nhà cũng có thể bị nhiễm sán trưởng thành khi ăn các động vật gặm nhâm hoàng dại.
Người nhiễm bệnh khi vô tình nuốt phải trứng sán trong phân cáo hoặc chó. Bệnh nang chùm ở người được thông báo từ một số vùng Trung Âu, hầu hết các vùng Siberia, Bắc Nhật Bản, Tâỳ Bắc Canada, và Tây Alaska.
Các thông báo gần đây cho thấy vùng phân bố bệnh ở cựu thế giới rộng hơn về phía Nam, tới Iran, Bắc Ấn Độ và Trung Quốc. Ngày càng có nhiều ca bệnh được thông báo từ vùng trung tâm của Bắc Mỹ (mười một bang của Hoa Kỳ và bốn tỉnh Canada). Vị trí tiên phát của các nang chùm là ở gan, nơi các nang phát triển tại chỗ hoặc di căn đến các tổ chức khác. Khối nang chứa ấu trùng có ranh giới không rõ rệt và tiến triển giống như ung thư; nang xâm lấn và tăng sinh không giới hạn bằng các chồi mọc ra bên ngoài từ màng mầm, tạo ra các nang nhỏ giống như các phế nang. Nhiễm bệnh ở phổi ít gặp, thường xuất hiện khi nang phát triển trực tiếp từ gan. Chụp X quang cho thấy gan to, có các vùng sáng đặc hiệu nằm rải rác có các vòng vôi hóa 4 mm bao quanh. Các xét nghiệm huyết thanh học cũng giống như trong bệnh nang túi và không phân biệt được giữa các loài sán. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ cả khối ấu trùng nếu có thể thực hiện được, phối hợp với điều trị thuốc. 97% số bệnh nhân có khối nang không thể phẫu thuật được chết trong vòng 10 năm. Điều trị thuốc kéo dài (từ 5 năm tới suốt đời) bằng albendazol (ưu tiên) (800 mg/ngày chia nhiều lần) hoặc mebendazol (40 mg/ kg/ngày chia nhiều lần trong bữa ăn có nhiều chất béo); các thuốc này ức chế sự phát triển của mầm sán và kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân, nhưng tổ chức ấu trùng sán không bị phá hủy hoàn toàn.
Bài viết cùng chuyên mục
Nhiễm sán lá gan (Fascioliasis)
Ở người, các ấu trùng nang ra khỏi kén, xâm nhập và di chuyển qua gan, và trưởng thành trong các ống mật. Ở gan chúng gây hoại tử nhu mô tại chỗ và tạo áp xe.
Bệnh do các amip gây bệnh không ký sinh
Amip gây bệnh có khả năng xâm nhập hệ thần kinh trung ương qua tấm sàng. Thời kỳ ủ bệnh dao động từ 2 đến 7 ngày.
Nhiễm sán lá ruột (Fasciolopsiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các trứng sán đặc trưng, hoặc đôi khi các sán trưởng thành trong phân. Tăng bạch cầu đi kèm với tăng vừa phải bạch cầu ái toan là dấu hiệu thường gặp.
Bệnh do nhiễm Giardia
Chẩn đoán dựa trên việc xác định kén hoặc thể thực bào trong phân hoặc dịch tá tràng. Việc phát hiện có thể khó khăn, do số kén thải ra thay đổi đáng kể theo ngày.
Nhiễm Leishmania da
Chẩn đoán xác định dựa trên việc nhận biết ký sinh gây bệnh. Nếu có thể, việc xác định loài phải được thực hiện bằng các phương pháp phân tử.
Bệnh giun đũa
Do có sự di trú và khả năng kích thích dị ứng, các ấu trùng trong phổi gây tổn thưong mao mạch và phế nang, dẫn đến các biểu hiện sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè, khó thở, và đau sau xưong ức.
Nhiễm giun Angiostrongylus cantonensis
Xét nghiệm dịch não tủy thường cho thấy tăng protein, tăng bạch cầu ái toan, đường bình thường. Đôi khi, có thể tìm thấy giun trong dịch não tủy.
Bệnh giun Gnathostoma
Các phủ tạng và mắt cũng có thể bị xâm nhập. Các biến chứng như tràn khí màng phổi tự phát, rỉ bạch huyết, nôn ra máu, đái máu, ho ra máu, ho từng cơn.
Bệnh do Babesia
Người nhiễm bệnh qua vết đốt của ve Ixode dammini, nhưng lây nhiễm qua truyền máu cũng đã được thông báo. Đồng nhiễm trùng với bệnh Lyme có thể xuất hiện.
Bệnh giun chỉ
Diethylcarbamazin, thuốc điều trị lựa chọn cho bệnh giun chỉ, tiêu diệt nhanh ấu trùng trong máu, nhưng có tác dụng diệt rất chậm hoặc chỉ gây tổn thương cho giun trưởng thành.
Bệnh do Trypanosoma châu mỹ
Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài từ 10 tới 30 năm, khi bệnh nhân không có triệu chứng nhưng các xét nghiệm huyết thanh học và đôi khi xét nghiệm ký sinh trùng khẳng định sự tồn tại của bệnh.
Nhiễm leishmania nội tạng
Chẩn đoán phân biệt bao gồm ung thư máu, u lympho, lao, bệnh Brucella, sốt rét, thương hàn, bệnh sán máng, nhiễm trypanosomia Châu Phi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, xơ gan, và các bệnh khác.
Nhiễm sán lá phổi (paragonimiasis)
Trong phổi, các cá thể sán bị bao bọc bởi tổ chức xơ và u hạt, tạo thành các kén đường kính tới 2cm. Tổn thương này, thường có lỗ mở vào phế quản, có thể bị vỡ sau đó
Nhiễm giun Angiostrongylus costariensis
Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm sốt, đau và nắn thấy một khối ở hố chậu phải, tăng số lượng bạch cầu và tăng bạch cầu ái toan.
Bệnh giun rồng
Các áp xe lạnh, sâu có thể xuất hiện tại chỗ giun chết, không ra ngoài. Nhiễm trùng khớp cổ chân và khớp gối là các biến chứng thường gặp, gây biến dạng khớp.
Nhiễm coccidium và microsporidia
Nhìn chung các dạng ỉa chảy do các vi sinh coccidium và microsporidium gây ra không thể phân biệt được với nhau trên lâm sàng.
Bệnh do Toxoplasma
Phần lớn nhiễm toxoplasma diễn ra, dưới dạng bệnh sốt cấp tính đa cơ quan, không nặng, giống như bệnh tăng bạch cầu đa nhân nhiễm trùng.
Bệnh ấu trùng di trú nội tạng: bệnh giun toxocara
Phương pháp phòng bệnh ở người tốt nhất là điều trị định kỳ chó con, mèo con, chó và mèo mẹ đang trong thời kỳ cho con bú, bắt đầu từ 2 tuần sau khi đẻ.
Bệnh giun kim
Giun trưởng thành cư trú ở manh tràng và các vùng ruột lân cận, nằm bám lỏng lẻo vào niêm mạc. Các giun cái trưởng thành chui qua hậu môn tới vùng da quanh hậu môn và đẻ trứng với số lượng lớn.
Bệnh do Balantidium (balantidiasis)
Chẩn đoán dựa trên việc xác định các thể thực bào trong phân lỏng, các kén trong phân khuôn, hoặc các thể thực bào trong dịch nạo từ các vết loét hoặc tổ chức sinh thiết vết loét từ đại tràng.
Bệnh sán máng (nhiễm Schistosoma)
Tiên lượng rất tốt khi bệnh được điều trị ở giai đoạn sơm và nhẹ. Các tổn thương loét, u hạt và polyp ở ruột và bàng quang có thể co nhỏ hoặc biến mất, cũng như các tổn thương xơ hóa ở gan trên siêu âm.
Bệnh do Trypanosoma châu phi
Nhiễm Tb rhodesiense chủ yếu là bệnh của động vật săn được, người nhiễm bệnh đơn phát. Người là vật chủ chủ yếu của Tb gambiense.
Bệnh giun chỉ Loa loa
Các biện pháp bảo vệ cá nhân bao gồm việc sử dụng các chất xua côn trùng vào ban ngày, mặc áo dài tay và quần dài sáng màu.
Nhiễm sán lá gan Clonorchis và Opisthorchis
Các biến chứng bao gồm sỏi đường mật trong gan có khả năng dẫn đến viêm mủ đường mật tái phát, áp xe đường mật, hoặc viêm nội mạc các nhánh tĩnh mạch cửa.
Bệnh do amip
Trước kia được coi là một loại ký sinh trùng có khả năng gây bệnh khác nhau, quan điểm chung hiện nay là có hai loài khác biệt dù cấu trúc giống nhau.
