Các thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch

2016-10-06 02:47 PM

Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Viêm phổi ở người bị tổn thương miễn dịch có thể gây ra bởi vi khuẩn, mycobacteria, nấm, động vật đơn bào, giun, virus nhưng không phải tất cả các thâm nhiễm phổi ở người bị bệnh là do nhiễm khuẩn. Các qúa trình không do nhiễm khuẩn như phù phổi, phản ứng thuốc, nhồi máu phổi, tiềm ẩn bệnh ác tính, viêm phổi do tia xạ có thể giống hệt như nhiễm khuẩn. Mặc dù bất kỳ yếu tố gây bệnh nào cũng có thể gây viêm phổi ở người bị bệnh, song có hai công cụ lâm sàng giúp người thầy thuốc thu hẹp chẩn đoán phân biệt. Thứ nhất là kiến thức về sự khiếm khuyết miễn dịch tồn tại ở bên dưới: các typ đặc hiệu của khiếm khuyết về nhiễm dịch dễ gây các nhiễm khuẩn riêng biệt ví dụ các khiếm khuyết về miễn dịch dịch thể chủ yếu dễ gây các nhiễm khuẩn vi khuẩn trong đó kháng thể đóng vai trò quan trọng trong khi các khiếm khuyết trong miễn dịch tế bào dễ gây nhiễm virus, nấm, mycobacteria và động vật đơn bào. Giảm bạch cầu trung tính và chức năng bạch cầu hạt không hoàn hảo trong các bệnh như ung thư bạch cầu cấp, dùng thuốc điều trị hóa chất và dị sản tủy xương dễ gây nhiễm tụ cầu vàng, nấm aspergillus, trực khuẩn gram âm và nấm candida. Chụp X quang phổi cũng giúp chẩn đoán phân biệt được sáng tỏ. Các thâm nhiễm lan tỏa thường thấy trong viêm phổi do P. Carinii hay do virus, các nhiễm khuẩn và nhiễm nấm kết hợp một cách đặc hiệu với các thâm nhiễm khu trú thời gian của qúa trình nhiễm khuẩn cũng giúp cho tìm ra nguyên nhân viêm phổi ở người tổn thương miễn dịch. Một viêm phổi xảy ra rất nhanh là có thể do nhiễm khuẩn trong khi đó một viêm phổi âm ỉ có lẽ thích hợp hơn là nghĩ đến do virus, nấm, động vật đơn bào, nhiễm lao. Viêm phổi xảy ra trong vòng 2 - 4 tuần sau ghép nghĩ tới do vi khuẩn là hợp lý nhất trong khi nếu xảy ra nhiều tháng hoặc ngay hôm sau khi ghép thường là do nhiễm P. carinii, virus (CMV hay các loại khác), nấm (aspergillds và các loại khác).

Để chẩn đoán, nên cấy máu, xét nghiệm và cấy đờm, dịch màng phổi nếu có, xét nghiệm đờm khạc ra tìm vi khuẩn, nấm, trực khuẩn lao, Legionella và P. carinii lá quan trọng và để có thể khỏi phải làm các phương phảp chẩn đoán tốn tiền và gây tổn thương. Một mẫu đờm đầy đủ thường khó có, khi đó qui nạp đờm trở nên cần thiết. Cần cố lấy đờm.

Hay gặp trường hợp là đánh giá thông thường không nhận biết được nguyên nhân gây bệnh. Khi đó nhà lâm sàng buộc phải vừa bắt đầu điều trị thuốc kháng khuẩn đồng thời tiến hành các thủ thuật gây chảy máu như soi phế quản, chọc hút lồng ngực hoặc sinh thiết phổi mở. Rửa phế nang - phế quản phổi bằng soi phế quản sợi quang mềm là một phương pháp an toàn và hiệu quả để lấy chất xuất tiết ở phổi cho xét nghiệm vi sinh học. Nó có ít nguy cơ gây chảy máu hơn chải tế bào và sinh thiết qua phế quần. Rửa phế nang - phế quản đặc biệt phù hợp cho chẩn đoán viêm phổi do P. carinii ở bệnh nhân AIDS và thực tế đạt tới 90 - 97%.

Xét nghiệm đờm khạc tìm P. carinii là cách thay thế rửa phế nang - phế quản vì rẻ hơn và không phải xâm nhập vào cơ thể. Độ nhạy của xét nghiệm tìm P. carinii trong đờm thay đổi từ 28% đến 92% và tùy thuộc kinh nghiệm, số mẫu bệnh phẩm được xét nghiệm và phương pháp thực hiện. Sự lựa chọn cách tiến hành xử lý phải dựa vào mức độ nặng của nhiễm khuẩn ở phổi, bệnh cơ bản, các nguy cơ điều trị kinh nghiệm, có chuyên gia tại chỗ và kinh nghiệm làm thủ thuật. Sinh thiết phổi mở được coi là một thủ thuật chuẩn để chẩn đoán thâm nhiễm phổi ở người suy giảm miễn dịch nhưng lựa chọn phải có so sánh cân nhắc tới một thực tế là thông tin thu được hiếm khi có tác động lên kết quả cuối cùng. Hơn nữa, chỉ có được chẩn đoán đặc hiệu ở khoảng hai phần ba số trường hợp đã được sinh thiết, vì thế thường hay được điều trị theo kinh nghiệm đặc biệt khi tỷ lệ “nguy cơ / có lợi” của phương pháp sinh thiết phổi là cao.

Bài viết cùng chuyên mục

Giãn phế quản

Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.

Nhiễm protein phế nang phổi

Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.

Các u carcinoid phế quản: ung thư phổi

Các u carcinoid phế quản mọc chậm, ít khi di căn. Biến chứng của nó là chảy máu, làm tắc đường hô hấp hơn là xâm lấn, di căn. Cắt bỏ bằng ngoại khoa một số trường hợp là cần thiết.

Nốt phổi đơn độc

Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.

Thở không khí ô nhiễm

Hậu qủa của tổn thương phổi khi hít thở không khí nhiễm bẩn tùy thuộc vào độ nặng nề và cách thức tiếp xúc với không khí này cũng như tinh trạng phổi của người bệnh trước đó.

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện

Viêm phổi mắc phải ở bệnh viện được định nghĩa là viêm phổi xảy ra từ trên 48 giờ sau khi vào viện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật và tử vong của bệnh nhân nằm viện.

Các khối u lành tính của phổi

Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.

Các khối u trung thất

CT giúp ích cho xử trí, nếu nghi đến thực quản thì chụp X quang thực quản với baryt. Siêu âm Doppler hoặc chụp tĩnh mạch cánh tay đầu, tĩnh mạch chủ trên, chụp động mạch.

Hội chứng tăng thông khí

Tăng thông khí là sự tâng thông khi phế nang gây ra nhược thán. Nó có thể do nhiều nguyên nhân như thiếu oxy máu, các bệnh phổi thâm nhiễm và tắc nghẽn, nhiễm khuẩn, rối loạn chức náng gan, sốt và đau.

Bệnh huyết khối tắc mạch phổi

Các phát hiện lâm sàng trong huyết khối tác nghẽn mạch phổi phụ thuộc vào kích thước cục tắc và trạng thái tim phổi trước đó. Trong nghẽn mạch phổi lớn, thất phải bị suy, huyết áp hệ thống hạ.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phổi

Thở rít khi hít vào và thở rít khi thở ra cùng với nhau gợi cho thấy có tắc nghẽn cố định ở nơi nào đó trong đường thở phía trên. Ngáy là tiếng thở vào do rung động thanh hầu khi ngủ.

Hít phải khói

Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.

Hen phế quản

Sinh bệnh học của hen còn biết rất ít. Ngày nay hen đầu tiên được nhìn nhận như một bệnh viêm bán cấp đường thở. Vai trò của các cơ chế dị ứng trong số lớn bệnh nhân bị hen được chú ý nhiều.

Suy hô hấp cấp

Các triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp cấp vừa không nhậy cảm vừa không đặc hiệu do đó người thầy thuốc phải nghĩ tới và yêu cầu làm xét nghiệm đo khí máu động mạch nếu nghi có suy hô hấp.

Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi

Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.

Tràn dịch màng phổi

Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.

Viêm tắc tiểu phế quản

Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.

Các hội chứng hít sặc ở phổi

Hít phải mạn tính các chất trong dạ dày, có thể do các rối loạn tiên phát của thực quản, ví dụ không giãn được cơ trơn, hẹp thực quản, cứng bì.

Các bệnh phổi nghề nghiệp

Các bệnh phổi nghề nghiệp có biểu hiện rối loạn đường hô hấp tắc nghẽn gồm có hen nghề nghiệp, viêm phế quản công nghiệp và bệnh bụi bông.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD

Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.

Tắc đường hô hấp

Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.

Tràn khí màng phổi tự phát

Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.

Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick

Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.

Bệnh xơ nang phổi

Các biểu hiện của phổi xảy ra ở mọi bệnh nhân thoát qua được tuổi niên thiếu gồm có viêm phế quản cấp và mạn, giãn phế quản, viêm phổi, xẹp phổi, tổn thương nhu mô và vùng quánh phế quản.

Hội chứng trụy hô hấp cấp (ARDS)

Không co biện pháp phòng ARDS có hiệu qủa, đặc biệt dùng PEEP phòng ngừa cho các bệnh nhân có nguy cơ ARDS không có hiệu qủa.