- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp
- Nốt phổi đơn độc
Nốt phổi đơn độc
Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhận định chung
Nốt phổi đơn độc là một tổn thương phổi có bờ sắc nét, hình tròn hay hình bầu dục (đường kính tới 5 cm, các tổn thương rộng hơn gọi là các "khối") bao quanh bởi mô phổi lành. Có thể tạo hang ở giữa, vôi hóa hay có các tổn thương bao quanh ("vệ tinh"). Chụp X quang để lọc loại ung thư trong cộng đồng không nhằm phát hiện nốt phổi đơn độc nhưng khi phát hiện được thì có giá trị quan trọng. Chừng 25% các trường hợp carcinoma phế quản, biểu thị như các nốt phổi đơn độc, tỷ lệ sống 5 năm của carcinoma phế quản, phát hiện dưới dạng này đạt 50% cao hơn tỷ lệ sống 5 năm của ung thư phổi nói chung tới 10 - 15%.
Trong các loạt phẫu thuật, chừng 60% các nốt phổi đơn độc là các tổn thương lành tính, 40% là ác tính. Các u hạt nhiễm khuẩn chiếm hầu hết các tổn thương lành tính trong khi ung thư phổi tiên phát chiếm hơn 3/4 các nốt phổi đơn độc ác tính. Các nốt phổi đơn độc đôi khi là biểu hiện di căn của các u tiên phát khác. Xác định tổn thương là lành hay ác tính trưóc mổ quan trọng hơn là nguyên nhân chính xác của chúng.
Một tổn thương hầu như chắc chắn là lành tính nếu thời gian nhân đôi dưới 30 ngày hay trên 500 ngày hay nếu tổn thương vôi hóa (loại trung tâm, "đám" hay phiến calci). Các yếu tố để chẩn đoán lành tính là tuổi trẻ, không có triệu chứng, kích thước nhỏ (đường kính < 2 cm), bờ mỏng khi chụp CT. Có các tổn thương vệ tinh nhưng các tiêu chuẩn đã nói trên phải đánh giá đúng. Các nốt phổi đơn độc ác tính đôi khi có triệu chứng, khuynh hướng này ở người trên 45 tuổi, thường nốt rộng hơn 2 cm, thường có bờ không xác định, hiếm khi vôi hóa. Dạng điển hình của các di căn phổi đơn độc là các bờ nhẵn hay có múi, ở ngoại vi, ở thùy dưới và không có các tổn thương vệ tinh.
Các thử nghiệm da và huyết thanh chẩn đoán tìm nấm không giúp gì cho chẩn đoán. Xét nghiệm đờm tìm tế bào phải làm để đánh giá nốt phổi lớn khu trú ở trung tâm. Nếu kết qủa dương tính phải soi phế quản hay sinh thiết bằng kim. Tìm tế bào trong đờm hiếm khi chẩn đoán được ác tính khi các nốt nhỏ hay ở ngoại vi phổi. Xét nghiệm X quang, so sánh với các phim cũ vô cùng quan trọng. CT đặc biệt giúp ích. CT cắt lớp mỏng là phương pháp được ưa thích để phát hiện vôi hóa trong nốt. Nếu không có các triệu chứng bất thường, các dấu hiệu bất thường, các xét nghiệm đơn giản (đếm hồng bạch cầu, tỷ lệ bạch cầu, phân tích nước tiểu) gợi đến một ung thư ngoài phổi thì không cần tìm kiếm ung thư tiên phát trong cơ thể. Không cần chọc hút bằng kim qua da mọi nốt phổi đơn độc, ít khi nó thay đổi phương cách trị liệu sau đó và thường cho âm tính giả. Ngoài ra nếu tiền sử bệnh, khám thực thể và các xét nghiệm, điện quang cho thấy bệnh nhân cần phẫu thuật thì soi phế quản ống mềm trước khi mổ với mục đích định giai đoạn là không cần thiết.
Điều trị
Các bước quan trọng trong việc xử trí nốt phổi đơn độc như sau: (1) Xem lại kỹ X quang phổi; (2) So sánh với phim X quang trước đó; (3) Nắm chắc tiền sử bệnh và hoàn tất khám thực thể; (4) Hoàn tất các khám nghiệm X quang bổ sung như CT nếu cần; (5) Thông báo cho bệnh nhân các phát hiện và với sự tham gia của bệnh nhân, chọn lựa giải pháp tốt nhất trong 4 giải pháp sau: "chờ đợí với sự cảnh giác", soi phế quản ống mềm, hút bằng kim qua da và cắt bỏ. Về nguyên tắc chung mà nói mọi nốt phổi đơn độc ở bệnh nhân trên 35 tuổi phải coi là có khả năng ác tính và nên cắt bỏ trừ phi tổn thương lành tính vôi hóa điển hình hay ổn định trên phim X quang trong 2 năm chờ đánh giá sau này ("chờ đợi với sự cảnh giác") nói chung không phù hợp nếu tổn thương không vôi hóa hay tổn thương không ổn định.
Các dấu hiệu chỉ thị rõ ràng là chẩn đoán lành tính hoặc có chống chỉ định mổ sẽ ủng họ cho điều trị bảo tồn. Mở lồng ngực thăm dò hay trong một số trường hợp soi lồng ngực nên làm càng sớm càng tốt sau khi phát hiện được nốt phổi đơn độc. Soi lồng ngực có video trở nên ngày càng phổ thông là một phương cách chính xác và an toàn nên làm trước khi mở lồng ngực, cắt bỏ các hốt phổi đơn độc. Các biến chứng và tử vong của thủ thuật này ít hơn so với của mở lồng ngực.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm phế nang xơ nguồn gốc ẩn
Điều trị gồm các biện pháp hỗ trợ, thở thêm oxy và corticosteroid. Corticosteroid thường chỉ định cho các bệnh nhân có các triệu chứng tăng dần hay chức năng phổi suy giảm.
Hội chứng giảm thông khí béo phì: hội chứng Pickwick
Điều trị hội chứng giảm thông khí béo phl chủ yếu là giảm cân, điều đó sẽ cải thiện tình trạng ưu thán và thiếu oxy cũng như các đáp ứng thông khí đối với thiếu oxy và ưu thán.
Các rối loạn thở liên quan đến ngủ
Cần thực hiện sự sàng lọc, dùng phương pháp đo oxy ban đêm, tại nhà có giá trị tiên đoán âm tính cao, để loại trừ ngừng thở khi ngủ quan trọng.
Tắc đường hô hấp
Tắc mạn tính đường hô hấp trên có thể do carcinom hầu họng hay thanh quản, chít hẹp thanh quản hay dưới nắp thanh quản, u hạt thanh quản hay dây thanh hoặc liệt dây thanh âm hai bên.
Hít phải khói
Điều quan trọng là phải tìm hiểu và nhận biết ba hậu qủa của hít khói, sự oxy hóa của mô bị suy giảm, tổn thương đường hô hấp trên và dưới do nhiệt, tổn thương phổi do hóa chất có trong khói.
Viêm mạch phổi và bệnh u hạt
Bệnh u hạt dạng u bạch huyết là một bệnh hệ thống biểu thị bằng viêm mạch u hạt và thâm nhiễm tế bào đa dạng gồm các tế bào lympho và dạng tương bào không điển hình.
Các hội chứng chảy máu phế nang
Hội chứng Goodpasture là chảy máu phế nang tái hồi tự phát và viêm cầu thận tiến triển nhanh chóng. Bệnh do các kháng thể màng chống lại màng cầu thận phát hiện bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang phổi và thận.
Giãn phế quản
Giãn phế quản là rối loạn bẩm sinh hay mắc phải của phế quản lớn đặc trưng bởi có giãn và hủy hoại bất thường, hằng định thành phế quản. Bệnh có thể do viêm hay nhiễm khuẩn đường hô hấp tái đi tái lại.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính COPD
Viêm phế quản mạn tính có đặc điểm là tăng tiết niêm dịch phế quản biểu thị bằng ho có đờm từ 3 tháng trở lên trong ít nhất 2 năm liền mà không phải do bất kỳ bệnh nào khác gây nên.
Bệnh phổi do thuốc
Giai đoạn cấp của bệnh phổi do thuốc thường mất đi 24 đến 48 giờ sau khi ngùng thuốc nhưng các hội chứng mạn tính phải nhiều thời gian hơn mới giải quyết được.
Nhiễm protein phế nang phổi
Tiến trình của bệnh thay đổi, một số tự lui bệnh trong khi ở những bệnh nhân khác phát triển thành suy hô hấp tiến triển. Nhiễm khuẩn phổi do Nocardia hay do nấm có thể xảy ra.
Ung thư phổi thứ phát
Carcìnoma mạch bạch huyết biểu thị sự lan rộng của ung thư phổi thứ phát vào lưới bạch huyết phổi, có lẽ do sự lan rộng của khối u từ mạch máu vào mạch bạch huyết.
Viêm phổi
Chụp X quang phổi nằm trong các xét nghiệm đầu tiên cần làm đối với bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu nghi có viêm phổi. Hình thâm nhiễm không đặc trưng cho nguyên nhân phổi.
Ung thư biểu mô nguồn gốc phế quản
Ung thư tế bào có vảy của phổi, có khuynh hướng xuất phát trong phế quản trung tâm, mọc trong lòng phế quản, do đó dễ làm xét nghiệm tế bào ở đờm hơn.
Các test chẩn đoán bệnh phổi: test chức năng, test luyện tập và soi phế quản
Đo phế dung và đo các thể tích phổi cho phép xác định có rối loạn chức năng phổi hạn chế hay tắc nghẽn không. Rối loạn chức năng phổi tắc nghẽn được xác định khi các tỷ lệ dòng khí giảm.
Các bệnh phổi kẽ
Các bệnh phổi kẽ có các biểu hiện X quang, sinh lý, lâm sàng chung. Khó thở khi gắng sức và ho khan lúc đầu âm ì là các triệu chứng biểu hiện thường gặp.
Các khối u lành tính của phổi
Hầu hết bệnh nhân cần mở lồng ngực để chẩn đoán xác định vì nghi carcinoma phế quản. Bệnh nhân ít có khả năng mổ có thể chụp phim lồng ngực hàng loạt để theo dõỉ sự tiến triển.
Tràn dịch màng phổi
Có 5 loại tràn dịch màng phổi chủ yếu là tràn dịch màng phổi dịch thấm, dịch rỉ, mủ màng phổi, chảy máu hay tràn máu lồng ngực và dưỡng chấp hay tràn dịch dưỡng chấp.
Viêm phổi kỵ khí và áp xe phổi
Nhiễm khuẩn kỵ khí các loại khác nhau có biểu hiện trên phim X quang khác nhau có thể phân biệt được. Áp xe phổi có biểu hiện trên phim X quang là một hang đơn độc thành dầy bao quanh có vùng đông đặc.
Giảm thông khí phế nang tiên phát
Thiếu oxy máu và ưu thán xuất hiện và các triệu chứng này được cải thiện nếu tăng thông khí tự nguyện. Thường có tăng hồng cầu.
Viêm khí phế quản cấp
Các dấu hiệu thực thể rất ít hay không có. Sau khi ho ra nhiều đờm, nghe phổi có thể mất tiếng ran ngáy nhưng khò khè vẫn còn. Các dấu hiệu đông đặc phổi không có.
Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan
Một dạng cấp, nặng của viêm phổi tăng bạch cầu ái toan gần đây được mô tả, đặc trưng bởi sốt, suy hô hấp, dịch rửa phế quản phế nang có tỷ lệ bạch cầu ái toan cao
Viêm tắc tiểu phế quản
Viêm tắc tiểu phế quản có thể kết hợp với viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ và viêm da cơ. Liệu pháp penicillin có thể là nguyên nhân gây viêm tắc tiểu phế quản ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.
Tràn khí màng phổi tự phát
Tràn khí màng phổi thứ phát xảy ra như một biến chứng của COPD, hen, xơ nang, lao và cac bệnh phổi thâm nhiễm các loại gồm cả viêm phổi pneumocystis.
Tổn thương phổi do tia xạ
Xơ phổi do tia xạ xảy ra gần như trong tất cả bệnh nhân được nhận một tiến trình đầy đủ về điều trị bằng tia xạ trong ung thư phổi hoặc lồng ngực.