- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh viêm dạ dày
Giải phẫu bệnh viêm dạ dày
Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đây là thực thể bệnh lý rõ ràng. Nhưng thuật ngữ viêm dạ dày thường bị lạm dụng để giải thích một số triệu chứng nhẹ hay tạm thời như ợ chua, ăn khó tiêu... Ngược lại, bệnh viêm dạ dày có thể không gây triệu chứng lâm sàng nào cả. Có 2 nhóm viêm dạ dày: cấp tính và mạn tính. Mỗi nhóm có những loại khác nhau.
Viêm dạ dày cấp tính
Tình trạng viêm cấp tính của niêm mạc dạ dày, thường có tính chất tạm thời, có thể kèm xuất huyết trong niêm mạc và nặng hơn có thể kèm viêm chợt niêm mạc.
Sinh bệnh học
Chưa được biết rõ. Một số dữ kiện lâm sàng và thực nghiệm cho thấy bệnh thường đi kèm với các tình huống như: dùng các loại kháng viêm không corticoid (AINS: Anti inflammatory non-steroid) hoặc thuộc nhóm corticoid hoặc Aspirin lâu ngày, uống nhiều rượu, hút thuốc lá nhiều, uống các hoá chất điều trị ung thư, tăng urê huyết, nhiễm khuẩn toàn thân (như sốt thương hàn), ngộ độc thức ăn có tụ cầu khuẩn, stress nặng (như phỏng nặng, chấn thương, mổ), sốc, tia xạ... Các yếu tố này đều có thể làm tăng mức chế tiết acid, làm giảm mức sản xuất bicarbonat đệm, làm giảm lưu lượng máu, do đó, làm cho acid ứ đọng và làm thương tổn niêm mạc dạ dày.
Hình thái giải phẫu bệnh
Tùy thuộc vào độ nặng của bệnh. Niêm mạc có thể bị phù trung bình và bị sung huyết nhẹ hoặc bị chợt và xuất huyết. Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân. Trong thể nặng hơn, với tên gọi là viêm chợt xuất huyết cấp tính, có tróc phần nông của niêm mạc, xuất huyết của lớp dưới và có thấm nhập bạch cầu đa nhân. Có những vùng rộng niêm mạc bị tróc, nhưng những tổn thương này cạn, hiếm khi ảnh hưởng hết bề dày niêm mạc và lớp sâu hơn. Tình trạng viêm chợt là bước đầu đưa đến loét do stress.
Biểu hiện lâm sàng
Nếu bệnh nhẹ thì thường không gây triệu chứng. Nặng hơn, bệnh nhân có thể bị ói ra máu, đau bụng cấp tính, đi cầu ra máu, ói, buồn nôn. Ở Anh, 25% trường hợp bệnh nặng kèm đi cầu và ói ra máu có liên quan đến việc sử dụng Aspirin hoặc AIWS.
Viêm dạ dày mạn tính
Sinh bệnh học
Không có bằng chứng rõ ràng cho thấy vai trò của dược phẩm, rượu, thuốc lá và bệnh viêm dạ dày cấp tính trong sinh bệnh học của viêm dạ dày mạn tính. Mặt khác, các khảo sát lâu ngày trên các bệnh nhân bị viêm dạ dày mạn tính nông cho thấy lớp niêm mạc dạ dày có thể hồi phục hoặc có thể teo đét. Vì vậy viêm dạ dày nông có thể là giai đoạn đầu của các tổn thương niêm mạc nặng hơn.
Viêm dạ dày vùng đáy vị: có 2 đối tượng bệnh nhân:
Ở người lớn thiếu máu ác tính. Trong nhóm thiếu máu ác tính, bệnh có nguyên nhân tự miễn dịch. Những bệnh nhân này có tổn thương nặng ở niêm mạc như viêm teo, teo dạ dày với mất hoàn toàn hay gần hoàn toàn các tế bào thành, vì vậy sẽ thiếu hay không có acid. Có 3 tự kháng thể chống lại tế bào thành, trong đó có 2 nhằm vào yếu tố IF (intrinsic factor: yếu tố nội tại), được tiết ra bởi các tế bào thành làm ngăn chặn sự hấp thu sinh tố B12 và đưa đến thiếu máu ác tính. Loại tự kháng thể thứ 3 thì tác động trực tiếp và làm tổn thương tế bào thành, có trong 80-90% bệnh nhân bị thiếu máu ác tính.
Trong nhóm bệnh nhân già không có thiếu máu ác tính thì cũng có 60% có tự kháng thể chống lại tế bào thành nhưng không có kháng thể chống yếu tố nội tại. Một số bệnh nhân này có thiếu máu nhược sắc. Bệnh cũng có trên thân nhân của những bệnh nhân của nhóm trên. Trên những thân nhân này lại không có các tự kháng thể. Vì vậy, nguyên nhân sinh bệnh trên nhóm bệnh nhân này vẫn chưa được biết rõ.
Viêm dạ dày vùng hang vị:
Có nguyên nhân khác hẳn với viêm dạ dày vùng đáy vị. Rất ít trường hợp có tự kháng thể chống lại tế bào tiết gastrin. Thường thường, bệnh nhân đồng thời có thêm bệnh loét dạ dày cho nên người ta nghĩ rằng có thể nguyên nhân của cả 2 bệnh là sự rối loạn hoạt động cơ vòng môn vị, sự trào ngược acid mật và lysolecithin.
Hình thái giải phẫu bệnh
Tổn thương có thể có ở hầu hết dạ dày, hoặc từng vùng xen kẽ, hoặc giới hạn ở đáy vị và thân hoặc ở hang vị. Dù ở đâu, tổn thương đều như nhau.
Trong viêm nông, lớp niêm mạc bị phẳng (mất nếp gấp) với thấm nhập limphô bào và tương bào trong lớp mô đệm giới hạn ở 1/3 trên của niêm mạc.
Trong viêm dạ dày teo đét, lớp niêm mạc bị mỏng và phẳng hơn, thấm nhập tế bào viêm sâu hơn, các tuyến bị teo đét và có những thay đổi của những tế bào bề mặt thượng mô. Ở đáy vị, còn rất ít tế bào thành, các tuyến bị teo đét, phần không bị teo đét thì bị dãn thành bọc lót bởi các tế bào nhầy hoặc tế bào chuyển sản ruột. Ở hang vị, các thay đổi cũng giống như ở đáy vị. Điểm đặc biệt là, trong loại viêm dạ dày vùng đáy vị, tổn thương có thể có cả ở hang vị, còn trong loại viêm dạ dày vùng hang vị thì tổn thương chỉ giới hạn ở hang vị.
Trong bệnh teo dạ dày mạn tính, các nếp gấp niêm mạc bị phẳng hoặc mất hẳn, niêm mạc bóng láng. Các tuyến vị teo đét ngắn lại, đôi khi dãn thành bọc. Thượng mô bề mặt và phần lõm sâu của niêm mạc dạ dày, có dạng của các tế bào đài chế tiết nhầy xen lẫn với thượng mô ruột có vi nhung mao.
Trong viêm đáy vị kèm thiếu máu ác tính, các tế bào thành biến mất gần như hoàn toàn trên các tuyến bị teo hay các tuyến còn lại. Ngược lại, trong viêm hang vị, vẫn còn tế bào thành ở thân và ở đáy dạ dày. Thượng mô bề mặt có thể bị chuyển sản hoặc nghịch sản.
Biểu hiện lâm sàng
Bệnh có thể không có triệu chứng hoặc có triệu chứng giống như viêm cấp tính gồm đau, khó chịu ở thượng vị, buồn nôn, ói mửa, đôi khi xuất huyết.
Viêm teo đét đáy vị thường được để ý hơn do tình trạng thiếu máu ác tính và giảm acid chlohydric trong dịch vị.
Trong viêm hang vị, tình trạng tiết acid vẫn bình thường hoặc thấp. Đặc biệt là mối liên hệ: bệnh loét dạ dày thường kèm viêm hang vị (nhưng ngược lại thì không). Người ta không biết chắc loét hay viêm có trước. Nhưng vì khi loét đã lành thì viêm vẫn còn nên có thể viêm có trước và tạo nên loét.
Cần chú ý rằng cả 2 bệnh viêm dạ dày teo đét và teo đét dạ dày dù ở hang vị hay đáy vị đều là tổn thương tiền ung thư. Xuất độ biến thành ung thư cao hơn ở nhóm bệnh viêm đáy vị kèm thiếu máu ác tính, với tỉ lệ 7-10% số bệnh nhân.
Viêm dạ dày phì đại
Nhóm bệnh hiếm xảy ra, với các nếp gấp niêm mạc dạ dày to có dạng như cuộn não. Thực ra, niêm mạc dạ dày không bị phì đại mà bị viêm và có tăng sản của tế bào thượng mô chế tiết nhầy.
Viêm dạ dày dạng u hạt
Bệnh hiếm gặp, có thể xảy ra trên những bệnh nhân trẻ, bị bệnh sarcoid, bệnh Crohn, nhưng thường nhất là xảy ra đơn độc trên bệnh nhân có tuổi trên 40.
Viêm dạ dày có bạch cầu ưa eosin
Xảy ra trên những bệnh nhân bị bệnh dị ứng, bệnh nhân có thể có bệnh suyễn. Niêm mạc dạ dày, đôi khi cả lớp sâu hơn, có thấm nhập nhiều bạch cầu ưa eosin. Có thể có kèm theo viêm hạt hay viêm cấp các động mạch nhỏ ở vách dạ dày.
Loét và chợt cấp tính của dạ dày
Xảy ra cấp tính, khu trú ở niêm mạc dạ dày sau một stress nặng, được gọi là loét do stress. Các tác nhân khác là aspirin, rượu, thuốc lá, thuốc corticosteroid, thuốc nhóm AIWS
Tổn thương thường nhiều ổ, ở bất cứ nơi nào của dạ dày, đôi khi có ở tá tràng, dưới dạng tróc thượng mô nông hoặc tổn thương sâu tới niêm mạc, nhưng không bao giờ xuống sâu hơn. Nếu là loét thì vết loét có giới hạn rõ và không phải là tiền thân của bệnh loét mạn tính và cũng không có cùng cơ chế bệnh. Vết loét thường tròn, nhỏ hơn 1cm đường kính. Đáy loét thường có màu nâu đậm do thấm acid và xuất huyết được phủ bởi hồng cầu với fibrin. Bờ đáy loét ít khi có sung huyết và không rõ vì là loét nông. Bờ và đáy loét không bị cứng. Các nếp gấp niêm mạc vẫn còn. Tùy theo thời gian bệnh, có thể có thấm nhập viêm ở bờ và đáy loét. Không có hoá sẹo hay dày các vách mạch máu.
Hồi phục hoàn toàn sau khi nguyên nhân gây bệnh không còn. Thời gian hồi phục hoàn toàn từ vài ngày đến vài tuần.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh u đại tràng
Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma
Giải phẫu bệnh Carcinom vú
Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).
Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu
Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.
Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm
Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán ( ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).
Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não
Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.
Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối
Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch
Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh
Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.
Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung
Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.
Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung
Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.
Giải phẫu bệnh sốc
Sốc là tình trạng suy giảm tuần hoàn cấp làm lưu lượng máu ở mô thiếu hụt, dẫn đến vô oxy tại tế bào. Sốc là một biến chứng tuần hoàn máu có nhiều biểu hiện đa dạng gây những rối loạn mô khác nhau.
Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung
Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn
Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương
Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.
Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng
Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.
Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm
Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.
Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào
Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:
Giải phẫu bệnh hạch lympho
Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).
Một số tổn thương giải phẫu bệnh dạ dày
Môn vị có thể bị nghẽn và tổn thương thực thể, có thể do mất trương lực của dạ dày và ruột trên bệnh nhân bị viêm phúc mạc làm liệt ruột.
Giải phẫu bệnh của đường mật
Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.
Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng
U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.
Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết
Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.
Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng
Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.
Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu
Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).
Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng
Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.
Giải phẫu bệnh u mô đệm dây giới bào (u mô đệm dục) buồng trứng
Kích thước u cũng quan trọng, theo Fox, u có đường kính dưới 5cm sống 100% sau 10 năm, nếu u từ 6-15cm, tỷ lệ sống thêm 10 năm là 37%.
Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh
Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.
