Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung

2012-11-27 04:17 PM

Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Viêm cổ tử cung không do vi khuẩn

Hầu hết viêm xảy ra do tác nhân cơ học hay hoá học và gây một phản ứng viêm không đặc hiệu. Các tác nhân có thể là những chất trong thuốc rửa âm đạo hay các chất lạ như băng vệ sinh đặt trong âm đạo, vòng pessaire hay vòng tránh thai đặt trong tử cung.

Viêm cấp cổ tử cung có sung huyết, phù nề mô đệm và xâm nhập bạch cầu đa nhân trong mô đệm và trong thượng mô.

Lâm sàng, cổ tử cung sưng đỏ, phù nề, có thể có huyết trắng.

Viêm mạn tính cổ tử cung có xâm nhập nhiều limphô bào. tương bào và mô bào. Mô đệm xơ hoá hay có dạng mô hạt.

Đôi khi có các nang limphô ở sát dưới lớp thượng mô.

Viêm cổ tử cung do nhiễm khuẩn

Các tác nhân có thể

Tạp khuẩn, kỵ khí hay ái khí có sẵn trong âm đạo.

Chlamydia trachomatis.

Lậu cầu khuẩn.

Mycoplasma hominis.

Liên cầu khuẩn nhóm B.

Ureaplasma ureolyticum.

Gardenerella vaginalis.

Actinomyces israeli.

Mycobacterium tuberculosis.

Treponema pallidum.

Các virus có thể

Human papilloma virus (HPV).

Herpes simplex virus (HSV).

Cytomegolovirus (CMV).

Nấm gây nhiễm khuẩn cổ tử cung có thể

Candida albicans.

Aspergillus.

Các ký sinh trùng và nguyên sinh động vật có thể

Trichomonas vaginalis.

Amíp.

Schistosoma.

Viêm do vi khuẩn

Viêm do vi khuẩn là nguyên nhân phổ biến nhất.

Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến viêm cổ tử cung như độc tính của vi khuẩn, thượng mô nguyên vẹn hay không và độ pH âm đạo.

Nhiều trường hợp nhiễm khuẩn do các tạp khuẩn cơ hội ái khí hay kỵ khí có sẵn trong âm đạo và nhiễm khuẩn xảy ra khi có teo đét thượng mô, chấn thương, loét, thay đổi pH âm đạo hay ứ đọng tiết dịch.

Viêm do Chlamydia và lậu cầu khuẩn là bệnh hoa liễu lây lan qua đường sinh dục.

Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.

Viêm mạn tính cổ tử cung thường là điểm khởi đầu trong bệnh sinh của bệnh viêm phúc mạc vùng chậu, nó cũng là nguồn gốc của viêm nội mạc tử cung sau sẩy thai hay sau sanh.

Nhiễm khuẩn cổ tử cung có thể dẫn đến sẩy thai tự nhiên, sanh non, viêm màng ối, thai chết lưu hay viêm phổi và nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh.

Nhiễm Chlamydia trachomatis: Đứng hàng đầu ở phương tây: viêm thường kèm các thể vùi trong bào tương tế bào thượng mô và có hình ảnh viêm cổ tử cung có nang limphô. Vi khuẩn thường tấn công thượng mô trụ, do đó âm đạo rất ít khi bị viêm.

Phụ nữ nhiễm Chlamydia có huyết trắng xanh, vàng như mủ, chảy ra từ cổ trong tử cung và có hơn 10 bạch cầu trên quang trường x 100, trên phết huyết trắng.

Viêm cổ tử cung thường kèm với viêm niệu đạo và viêm trực tràng do Chlamydia.

Chẩn đoán viên do Chlamydia dựa trên cấy miễn dịch huỳnh quang hay kháng thể đơn dòng với Chlamydia trachomatis bằng kỹ thuật miễn dịch men.

Viêm cổ tử cung do Chlamydia trong 40% trường hợp có kèm với viêm nội mạc tử cung và trong 11% trường hợp có kèm với viêm vòi trứng.

Di chứng của bệnh viêm này là viêm phúc mạc vùng chậu, vô sinh do nghẹt vòi trứng, và bệnh viêm phổi ở bé sơ sinh.

Nhiễm Actinomyces israeli: Thường gặp ở người có vòng tránh thai hay có nạo thai dụng cụ.

Tổn thương viêm có dạng lấm tấm màu vàng, được gọi là các hạt sulfur. Các hạt này gồm các sợi gram dương tính chia nhánh. Các Actinomyces được thấy ở giữa các ổ áp xe lớn hay trong mô hạt viêm, gây xơ hóa nhiều ở cổ tử cung.

Nhiễm lao ở cổ tử cung: Thường thứ phát, sau lao vòi trứng và lao nội mạc tử cung và thường đi kèm với lao phổi.

Xuất độ lao tử cung ở nhóm bệnh nhân lao đường sinh dục chiếm từ 2-60%.

Đại thể:

Cổ tử cung bình thường hay viêm hay sùi như trong ung thư xâm nhập ở cổ tử cung.

Vi thể: tổn thương gồm các nang lao với hoại tử bã đậu ở trung tâm, thoái bào và đại bào Langhans, vòng ngoài nang lao là các limphô bào.

Cần chẩn đoán phân biệt nang lao với các bệnh có dạng viêm hạt như mô hạt viêm với đại bào ăn dị vật, viêm hạch liễu (lymphogranuloma venereum), nhiễm Schistosoma, hay bệnh sarcoid.

Viêm do virus

Trái ngược với viêm do vi khuẩn, viêm do virus thường tấn công thượng mô lát tầng cổ tử cung.

Nhiễm virus Herpes: Ít hay không có triệu chứng lâm sàng nên xuất độ bệnh ở cổ tử cung khó xác định rõ ràng, từ 9-22% bệnh nhân đi khám phụ khoa nhiễm bệnh.

Tác nhân gây bệnh là HSV típ 2 và đôi khi HSV típ 1.

HSV1 chủ yếu gặp ở vùng miệng hầu (Herpes buccalis).

Nhiễm HSV2 thường qua giao hợp ở phụ nữ trẻ. 3-7 ngày sau khi bị nhiễm, bệnh nhân có các triệu chứng, vì thường ở âm hộ, âm đạo vùng hội âm và cổ tử cung có những ổ loét nông, rất đau. Nếu có loét ở âm hộ, bệnh nhân đau nhức âm hộ, đi tiểu đau, có nhiều huyết trắng như nước.

Bệnh ở cổ tử cung có thể được chẩn đoán bằng cấy virus, huyết thanh trung hòa kháng thể và các phết tế bào âm đạo, cổ tử cung. Trên phết tế bào, có nhiều tế bào lớn, nhiều nhân, với các thể vùi virus trong nhân.

Nếu sinh thiết một bọc nước, ta thấy bọc nước ở trên lớp đáy thượng mô, trong có các tế bào thượng mô thoái hoá, đại bào nhiều nhân với thể vùi trong nhân màu đỏ eosin.

Chẩn đoán bằng tế bào học hay bằng phân lập virus hữu hiệu nhất trong vòng 2-3 ngày sau khi có triệu chứng lâm sàng.

Nhiễm Herpes virus có 2 di chứng, một là gây sẩy thai tự nhiên, tử vong và bệnh tật ở thai nhi. Hai là có vai trò trong bệnh sinh của carcinom cổ tử cung. Virus HSV 2 có thể có vai trò cộng hưởng với HPV trong bệnh sinh của carcinom cổ tử cung.

Viêm do virus HPV: Đóng vai trò quan trọng trong hình thành tân sinh trong thượng mô cổ tử cung (CIN).

90% condylom cổ tử cung do HPV là condylom phẳng. U giới hạn rõ, hơi cao hơn thượng mô xung quanh, có màu trắng sau khi được chấm acid acêtic 5%. Condylom phẳng thường gặp ở nhiều nơi, trên lớp thượng mô lát tầng cổ ngoài hay trên vùng biến đổi, với thượng mô gai chuyển sản.

U có thể kèm với condylom ở âm đạo, âm hộ. Nếu có condylom âm hộ, hơn 70% có kèm condylom âm đạo hay condylom cổ tử cung.

Condylom sùi thường gặp hơn ở thượng mô hội âm và âm hộ. U thường gặp ở phụ nữ trẻ và lây lan qua đường sinh dục. Khi mang thai, u thường tăng trưởng và phát triển ở nhiều nơi. U có thể gây bệnh đa u nhú thanh quản ở các bé sơ sinh đẻ ra từ mẹ mang condylom đường sinh dục.

Nhiễm HPV thể hiện qua các thay đổi tế bào đặc thù là tế bào rỗng và các đặc điểm khác như tế bào bề mặt và trung gian to nhỏ không đều, nhân vón, chất nhiễm sắc đậm màu, tế bào 2 nhân, tế bào nghịch sừng.

Tế bào rỗng là những tế bào trung gian hay bề mặt có kích thước lớn, với bờ bào tương không đều, quanh nhân có một vùng lớn, sáng, bờ rõ, bào tương đậm đặc và ở sát màng bào. Tế bào rỗng thường có 2 nhân, nhân vón, tỷ lệ nhân trên bào tương tăng. Tế bào rỗng là hậu quả của virus xâm nhập làm chết tế bào sớm, và thường gặp trong 1/3 trên của thượng mô gai.

Về mô học, dưới độ phóng đại nhỏ, có nhiều nhân to bất thường nằm rải rác trong lớp màng của thượng mô gai. Lớp Malpighi tăng sản và có thể có dạng nhú. Các tế bào gai hoá sừng bất thường và được gọi là tế bào nghịch sừng. Bề mặt lớp thượng mô gai sừng hoá hoặc cận sừng hoá.

60% condylom tự thoái triển, 30% tồn tại và 10% có thể hoá ung thư.

HPV típ 6 và 11 thường gặp trong các condylom lành tính, còn các HPV típ 16, 18, 31, 32, 36 được phát hiện trong CIN và trong carcinom xâm nhập.

Viêm do CMV (cytomegalovirus) thường hiếm gặp.

Viêm do nấm

Viêm cổ tử cung do nấm Candida albicans thường đi kèm với viêm âm đạo và viêm âm hộ.

Viêm nấm thường gặp ở phụ nữ có pH âm đạo hoá kiềm, có sử dụng trụ sinh nhiều, hoặc bị tiểu đường không được điều trị đúng mức.

Huyết trắng do nhiễm nấm thường nhớt có những mảng trắng và rất ngứa.

Viêm cổ tử cung do nấm, phết tế bào âm đạo cổ tử cung thường thấy các sợi tơ nấm và men nấm.

Aspergillus hiếm gặp, thường ở người có suy giảm miễn dịch.

Viêm do ký sinh trùng và nguyên sinh động vật

Viêm âm đạo cổ tử cung do Trichomonas vaginalis khá phổ biến. Huyết trắng màu vàng xanh, có bọt như xà phòng. Viêm cổ tử cung cấp do Trichomonas thường gây viêm nặng với các tế bào gai tróc và trụ bất thường do hiện tượng tu bổ. Các tế bào tróc có nhân to hơn bình thường, đậm màu, có vòng sáng quanh nhân, bào tương ưa eosin. Có thể thấy nhiều Trichomonas hình bầu dục hay quả lê, kích thước cỡ tế bào cận đáy, nhân nhỏ, nằm lệch, bắt màu lợt. Ít khi thấy được roi của nguyên sinh động vật này.

Viêm loét, hoại tử ở cổ tử cung do amíp hiếm gặp.

Viêm do nhiễm Schistosoma haematobium. Hiếm hơn do Schistosoma mansoni thì lại rất phổ biến ở Phi châu (Ai cập), Nam Mỹ, Puerto Rico và nhiều nước Á châu.

Triệu chứng viêm không đặc hiệu với ra huyết trắng, ra huyết, đau bụng và thường gây vô sinh.

Vi thể:

Mô hạt viêm với trứng Schistosoma ở giữa, bao quanh là các đại bào nhiều nhân, và thường có ở vùng tiếp giáp gai-trụ. Trứng có thể hoá vôi.

Viêm cổ tử cung do Schistosoma thường kèm với nhiễm Schistosoma ở đường tiết niệu.

Nếu không điều trị, bệnh có thể sinh ung, loại carcinom cổ tử cung.

Bài viết cùng chuyên mục

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung

Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu

Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).

Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Giải phẫu bệnh hạch lympho

Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và thuốc

Xuất huyết bất thường, và có tác dụng cộng hưởng với progesterone, giúp hạ liều progestin trong viên thuốc ngừa thai.

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh viêm não màng não

Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.

Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù

Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.

Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm

U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng

Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung

Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.

Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm

Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh phù

Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.

Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung

Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.

Giải phẫu bệnh viêm xương

Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.

Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn

U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.