- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung
Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung
Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Viêm cổ tử cung không do vi khuẩn
Hầu hết viêm xảy ra do tác nhân cơ học hay hoá học và gây một phản ứng viêm không đặc hiệu. Các tác nhân có thể là những chất trong thuốc rửa âm đạo hay các chất lạ như băng vệ sinh đặt trong âm đạo, vòng pessaire hay vòng tránh thai đặt trong tử cung.
Viêm cấp cổ tử cung có sung huyết, phù nề mô đệm và xâm nhập bạch cầu đa nhân trong mô đệm và trong thượng mô.
Lâm sàng, cổ tử cung sưng đỏ, phù nề, có thể có huyết trắng.
Viêm mạn tính cổ tử cung có xâm nhập nhiều limphô bào. tương bào và mô bào. Mô đệm xơ hoá hay có dạng mô hạt.
Đôi khi có các nang limphô ở sát dưới lớp thượng mô.
Viêm cổ tử cung do nhiễm khuẩn
Các tác nhân có thể
Tạp khuẩn, kỵ khí hay ái khí có sẵn trong âm đạo.
Chlamydia trachomatis.
Lậu cầu khuẩn.
Mycoplasma hominis.
Liên cầu khuẩn nhóm B.
Ureaplasma ureolyticum.
Gardenerella vaginalis.
Actinomyces israeli.
Mycobacterium tuberculosis.
Treponema pallidum.
Các virus có thể
Human papilloma virus (HPV).
Herpes simplex virus (HSV).
Cytomegolovirus (CMV).
Nấm gây nhiễm khuẩn cổ tử cung có thể
Candida albicans.
Aspergillus.
Các ký sinh trùng và nguyên sinh động vật có thể
Trichomonas vaginalis.
Amíp.
Schistosoma.
Viêm do vi khuẩn
Viêm do vi khuẩn là nguyên nhân phổ biến nhất.
Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến viêm cổ tử cung như độc tính của vi khuẩn, thượng mô nguyên vẹn hay không và độ pH âm đạo.
Nhiều trường hợp nhiễm khuẩn do các tạp khuẩn cơ hội ái khí hay kỵ khí có sẵn trong âm đạo và nhiễm khuẩn xảy ra khi có teo đét thượng mô, chấn thương, loét, thay đổi pH âm đạo hay ứ đọng tiết dịch.
Viêm do Chlamydia và lậu cầu khuẩn là bệnh hoa liễu lây lan qua đường sinh dục.
Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.
Viêm mạn tính cổ tử cung thường là điểm khởi đầu trong bệnh sinh của bệnh viêm phúc mạc vùng chậu, nó cũng là nguồn gốc của viêm nội mạc tử cung sau sẩy thai hay sau sanh.
Nhiễm khuẩn cổ tử cung có thể dẫn đến sẩy thai tự nhiên, sanh non, viêm màng ối, thai chết lưu hay viêm phổi và nhiễm khuẩn huyết ở trẻ sơ sinh.
Nhiễm Chlamydia trachomatis: Đứng hàng đầu ở phương tây: viêm thường kèm các thể vùi trong bào tương tế bào thượng mô và có hình ảnh viêm cổ tử cung có nang limphô. Vi khuẩn thường tấn công thượng mô trụ, do đó âm đạo rất ít khi bị viêm.
Phụ nữ nhiễm Chlamydia có huyết trắng xanh, vàng như mủ, chảy ra từ cổ trong tử cung và có hơn 10 bạch cầu trên quang trường x 100, trên phết huyết trắng.
Viêm cổ tử cung thường kèm với viêm niệu đạo và viêm trực tràng do Chlamydia.
Chẩn đoán viên do Chlamydia dựa trên cấy miễn dịch huỳnh quang hay kháng thể đơn dòng với Chlamydia trachomatis bằng kỹ thuật miễn dịch men.
Viêm cổ tử cung do Chlamydia trong 40% trường hợp có kèm với viêm nội mạc tử cung và trong 11% trường hợp có kèm với viêm vòi trứng.
Di chứng của bệnh viêm này là viêm phúc mạc vùng chậu, vô sinh do nghẹt vòi trứng, và bệnh viêm phổi ở bé sơ sinh.
Nhiễm Actinomyces israeli: Thường gặp ở người có vòng tránh thai hay có nạo thai dụng cụ.
Tổn thương viêm có dạng lấm tấm màu vàng, được gọi là các hạt sulfur. Các hạt này gồm các sợi gram dương tính chia nhánh. Các Actinomyces được thấy ở giữa các ổ áp xe lớn hay trong mô hạt viêm, gây xơ hóa nhiều ở cổ tử cung.
Nhiễm lao ở cổ tử cung: Thường thứ phát, sau lao vòi trứng và lao nội mạc tử cung và thường đi kèm với lao phổi.
Xuất độ lao tử cung ở nhóm bệnh nhân lao đường sinh dục chiếm từ 2-60%.
Đại thể:
Cổ tử cung bình thường hay viêm hay sùi như trong ung thư xâm nhập ở cổ tử cung.
Vi thể: tổn thương gồm các nang lao với hoại tử bã đậu ở trung tâm, thoái bào và đại bào Langhans, vòng ngoài nang lao là các limphô bào.
Cần chẩn đoán phân biệt nang lao với các bệnh có dạng viêm hạt như mô hạt viêm với đại bào ăn dị vật, viêm hạch liễu (lymphogranuloma venereum), nhiễm Schistosoma, hay bệnh sarcoid.
Viêm do virus
Trái ngược với viêm do vi khuẩn, viêm do virus thường tấn công thượng mô lát tầng cổ tử cung.
Nhiễm virus Herpes: Ít hay không có triệu chứng lâm sàng nên xuất độ bệnh ở cổ tử cung khó xác định rõ ràng, từ 9-22% bệnh nhân đi khám phụ khoa nhiễm bệnh.
Tác nhân gây bệnh là HSV típ 2 và đôi khi HSV típ 1.
HSV1 chủ yếu gặp ở vùng miệng hầu (Herpes buccalis).
Nhiễm HSV2 thường qua giao hợp ở phụ nữ trẻ. 3-7 ngày sau khi bị nhiễm, bệnh nhân có các triệu chứng, vì thường ở âm hộ, âm đạo vùng hội âm và cổ tử cung có những ổ loét nông, rất đau. Nếu có loét ở âm hộ, bệnh nhân đau nhức âm hộ, đi tiểu đau, có nhiều huyết trắng như nước.
Bệnh ở cổ tử cung có thể được chẩn đoán bằng cấy virus, huyết thanh trung hòa kháng thể và các phết tế bào âm đạo, cổ tử cung. Trên phết tế bào, có nhiều tế bào lớn, nhiều nhân, với các thể vùi virus trong nhân.
Nếu sinh thiết một bọc nước, ta thấy bọc nước ở trên lớp đáy thượng mô, trong có các tế bào thượng mô thoái hoá, đại bào nhiều nhân với thể vùi trong nhân màu đỏ eosin.
Chẩn đoán bằng tế bào học hay bằng phân lập virus hữu hiệu nhất trong vòng 2-3 ngày sau khi có triệu chứng lâm sàng.
Nhiễm Herpes virus có 2 di chứng, một là gây sẩy thai tự nhiên, tử vong và bệnh tật ở thai nhi. Hai là có vai trò trong bệnh sinh của carcinom cổ tử cung. Virus HSV 2 có thể có vai trò cộng hưởng với HPV trong bệnh sinh của carcinom cổ tử cung.
Viêm do virus HPV: Đóng vai trò quan trọng trong hình thành tân sinh trong thượng mô cổ tử cung (CIN).
90% condylom cổ tử cung do HPV là condylom phẳng. U giới hạn rõ, hơi cao hơn thượng mô xung quanh, có màu trắng sau khi được chấm acid acêtic 5%. Condylom phẳng thường gặp ở nhiều nơi, trên lớp thượng mô lát tầng cổ ngoài hay trên vùng biến đổi, với thượng mô gai chuyển sản.
U có thể kèm với condylom ở âm đạo, âm hộ. Nếu có condylom âm hộ, hơn 70% có kèm condylom âm đạo hay condylom cổ tử cung.
Condylom sùi thường gặp hơn ở thượng mô hội âm và âm hộ. U thường gặp ở phụ nữ trẻ và lây lan qua đường sinh dục. Khi mang thai, u thường tăng trưởng và phát triển ở nhiều nơi. U có thể gây bệnh đa u nhú thanh quản ở các bé sơ sinh đẻ ra từ mẹ mang condylom đường sinh dục.
Nhiễm HPV thể hiện qua các thay đổi tế bào đặc thù là tế bào rỗng và các đặc điểm khác như tế bào bề mặt và trung gian to nhỏ không đều, nhân vón, chất nhiễm sắc đậm màu, tế bào 2 nhân, tế bào nghịch sừng.
Tế bào rỗng là những tế bào trung gian hay bề mặt có kích thước lớn, với bờ bào tương không đều, quanh nhân có một vùng lớn, sáng, bờ rõ, bào tương đậm đặc và ở sát màng bào. Tế bào rỗng thường có 2 nhân, nhân vón, tỷ lệ nhân trên bào tương tăng. Tế bào rỗng là hậu quả của virus xâm nhập làm chết tế bào sớm, và thường gặp trong 1/3 trên của thượng mô gai.
Về mô học, dưới độ phóng đại nhỏ, có nhiều nhân to bất thường nằm rải rác trong lớp màng của thượng mô gai. Lớp Malpighi tăng sản và có thể có dạng nhú. Các tế bào gai hoá sừng bất thường và được gọi là tế bào nghịch sừng. Bề mặt lớp thượng mô gai sừng hoá hoặc cận sừng hoá.
60% condylom tự thoái triển, 30% tồn tại và 10% có thể hoá ung thư.
HPV típ 6 và 11 thường gặp trong các condylom lành tính, còn các HPV típ 16, 18, 31, 32, 36 được phát hiện trong CIN và trong carcinom xâm nhập.
Viêm do CMV (cytomegalovirus) thường hiếm gặp.
Viêm do nấm
Viêm cổ tử cung do nấm Candida albicans thường đi kèm với viêm âm đạo và viêm âm hộ.
Viêm nấm thường gặp ở phụ nữ có pH âm đạo hoá kiềm, có sử dụng trụ sinh nhiều, hoặc bị tiểu đường không được điều trị đúng mức.
Huyết trắng do nhiễm nấm thường nhớt có những mảng trắng và rất ngứa.
Viêm cổ tử cung do nấm, phết tế bào âm đạo cổ tử cung thường thấy các sợi tơ nấm và men nấm.
Aspergillus hiếm gặp, thường ở người có suy giảm miễn dịch.
Viêm do ký sinh trùng và nguyên sinh động vật
Viêm âm đạo cổ tử cung do Trichomonas vaginalis khá phổ biến. Huyết trắng màu vàng xanh, có bọt như xà phòng. Viêm cổ tử cung cấp do Trichomonas thường gây viêm nặng với các tế bào gai tróc và trụ bất thường do hiện tượng tu bổ. Các tế bào tróc có nhân to hơn bình thường, đậm màu, có vòng sáng quanh nhân, bào tương ưa eosin. Có thể thấy nhiều Trichomonas hình bầu dục hay quả lê, kích thước cỡ tế bào cận đáy, nhân nhỏ, nằm lệch, bắt màu lợt. Ít khi thấy được roi của nguyên sinh động vật này.
Viêm loét, hoại tử ở cổ tử cung do amíp hiếm gặp.
Viêm do nhiễm Schistosoma haematobium. Hiếm hơn do Schistosoma mansoni thì lại rất phổ biến ở Phi châu (Ai cập), Nam Mỹ, Puerto Rico và nhiều nước Á châu.
Triệu chứng viêm không đặc hiệu với ra huyết trắng, ra huyết, đau bụng và thường gây vô sinh.
Vi thể:
Mô hạt viêm với trứng Schistosoma ở giữa, bao quanh là các đại bào nhiều nhân, và thường có ở vùng tiếp giáp gai-trụ. Trứng có thể hoá vôi.
Viêm cổ tử cung do Schistosoma thường kèm với nhiễm Schistosoma ở đường tiết niệu.
Nếu không điều trị, bệnh có thể sinh ung, loại carcinom cổ tử cung.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh tụy tạng
Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.
Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối
Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch
Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng
Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.
Giải phẫu bệnh khớp xương
Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.
Giải phẫu bệnh Carcinom vú
Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).
Giải phẫu bệnh ruột non
Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.
Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman
Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.
Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng
Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.
Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung
Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.
Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương
Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.
Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung
Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.
Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt
Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.
Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết
Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.
Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan
Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai
Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.
Giải phẫu bệnh u đại tràng
Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma
Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung
Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.
Giải phẫu bệnh hạch lympho
Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).
Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm
Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.
Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào
Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:
Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh
Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng
Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.
Giải phẫu bệnh bệnh hốc miệng
Tác nhân gây bệnh được truyền từ người này sang người khác, thường do hôn nhau. Hơn ba phần tư dân số bị nhiễm, trong khoảng nữa cuộc đời.
Giải phẫu bệnh ung thư buồng trứng do di căn
U có thể có các bọc lót bởi tế bào chế tiết nhầy, có chứa mô hoại tử và chất nhầy nhiều hơn carcinom tuyến bọc dịch nhầy của buồng trứng.
Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương
Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.