Sự bài tiết cholesterol của gan và sự hình thành sỏi mật

2022-04-18 03:50 PM

Muối mật được hình thành trong các tế bào gan từ cholesterol trong huyết tương. Trong quá trình bài tiết muối mật, mỗi ngày khoảng 1 - 2 gam cholesterol được loại bỏ khỏi huyết tương và bài tiết vào trong mật.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tế bào gan tổng hợp khoảng 6 gam muối mật mỗi ngày.Tiền chất của muối mật là cholesterol, là chất có trong khẩu phần ăn hoặc được tổng hợp bởi các tế bào gan trong quá trình chuyển hóa chất béo. Cholesterol được chuyển thành acid cholic và acid chenodeoxycholic với lượng bằng nhau. Những acid này lần được được kết hợp chủ yếu với glycin và một phần nhỏ với taurin để tạo thành acid mật với glycol - acid và tauro - acid mật. Muối của những acid này mà chủ yếu là muối Natri, sau đó được bài tiết vào trong dịch mật.

Muối mật có 2 hoạt động quan trọng trong đường ruột là:

Đầu tiên, chúng xà phòng hóa thành phần chất béo trong thức ăn. Hoạt động này, làm giảm sức căng bề mặt của các tiểu phần mỡ và khiến cho nhu động của đường tiêu hóa có thể phá vỡ các giọt mỡ thành các kích cỡ nhỏ hơn, được gọi là hoạt động nhũ tương hóa hoặc xà phòng hóa của muối mật.

Thứ 2, quan trọng hơn cả nhũ tương hóa, muối mật hỗ trợ hấp thu của (1) acid béo, (2)monoglyceride, (3) cholesterol, và (4) các lipid khác trong đường ruột. Chúng giúp hấp thu bằng cách tạo thành các phức hợp vật lý nhỏ giữa các lipid này; và phức hợp này được gọi là các micelle. Chúng có khả năng bán hòa tan trong dịch nhũ chấp bởi đặc tính tích điện của muối mật. Lipid đường ruột được “chuyên chở” ở dạng này tới niêm mạc đường ruột, tại đây chúng được hấp thu vào trong máu. Nếu không có sự có mặt của muối mật trong đường ruột thì có đến 40% của chất béo đã được tiêu hóa sẽ bị mất đi trong phân và sự thiếu hụt chuyển hóa thường sẽ xuất hiện bởi sự mất mát các chất dinh dưỡng.

Muối mật được hình thành trong các tế bào gan từ cholesterol trong huyết tương. Trong quá trình bài tiết muối mật, mỗi ngày khoảng 1 - 2 gam cholesterol được loại bỏ khỏi huyết tương và bài tiết vào trong mật.

Cholesterol là một chất hoàn toàn không tan trong nước tinh khiết, nhưng muối mật và lecithin trong dịch mật sẽ kết hợp với cholesterol để lại thành các micelle siêu hiển vi và tạo thành dung dịch keo. Khi dịch mật bị cô đặc trong túi mật, muối mật và lecithin cũng được cô đặc cùng với cholesterol nhằm giữ cholesterol tồn tại ở dạng dung dịch.

Trong các điều kiện không bình thường, cholesterol có thể kết tủa trong túi mật, gây nên sự hình thành sỏi mật cholesterol. Lượng cholesterol trong dich mật được định lượng một phần nhờ lượng chất béo mà con người ăn, bởi vì tế bào gan tổng hợp cholesterol như một sản phẩm của quá trình chuyển hóa chất béo trong cơ thế. Vì lý do này, với những người tiếp nhận một chế độ ăn giàu chất béo trong khoảng vài năm có xu hướng hình thành sỏi mật.

Hình thành sỏi mật

Hình. Hình thành sỏi mật.

Viêm nhiễm biểu mô túi mật, thường là hậu quả của quá trình viêm nhiễm mạn tính mức độ thấp, có thể thay đổi đặc tính hấp thu của niêm mạc túi mật, đôi khi làm sự hấp thu nước và muối mật tăng quá mức dẫn đến cholesterol trong túi mật dần dần bị cô đặc nhiều. Cholesterol sau đó bắt đầu bị kết tủa, đầu tiên sẽ tạo thành rất nhiều những tinh thể cholesterol trên bề mặt niêm mạc bị viêm nhiễm, nhưng sau đó sẽ hình thành dần các viên sỏi mật lớn.

Bài viết cùng chuyên mục

Những hệ thống kiểm soát hằng số nội môi ở trẻ sinh thiếu tháng

Những hệ thống cơ quan khác nhau chưa hoàn thiện chức năng ở trẻ sơ sinh thiếu tháng làm cho các cơ chế hằng định nội môi của cơ thể không ổn định.

Đặc điểm sinh lý cấu tạo bộ máy tiêu hóa

Thiết đồ cắt ngang, ống tiêu hóa cấu tạo gồm 8 lớp từ trong ra ngoài: niêm mạc, cơ niêm, lớp dưới niêm mạc, đám rối Meissner, cơ vòng

Tăng huyết áp: tăng thể tích dịch gây tăng cung lượng tim hoặc kháng lực ngoại vi

Bất cứ sự vượt quá lưu lượng máu chảy qua một mô, đều làm co mạch cục bộ và làm giảm lưu lượng máu về bình thường. Hiện tượng này được gọi là "tự điều hòa", điều đó có nghĩa đơn giản là sự điều hòa lưu lượng máu của chính mô đó.

Cơ chế co cơ trơn

Một đặc tính quan trọng khác của cơ trơn, đặc biệt là loại cơ trơn đơn nhất nội tạng của nhiều cơ quan rỗng, là khả năng quay trở lại gần như lực co bóp ban đầu của nó vài giây hoặc vài phút sau khi nó bị kéo dài hoặc rút ngắn.

Vận chuyển và lưu trữ Amino Acids trong cơ thể

Sản phẩm của quá trình tiêu hóa protein và hấp thụ trong đường tiêu hóa gần như hoàn toàn là các amino acid; hiếm khi là các polypeptid hoặc toàn bộ phân tử protein được hấp thu quá hệ tiêu hóa vào máu.

Sinh lý thần kinh tủy sống

Do trong quá trình phát triển, cột sống phát triển nhanh hơn tủy sống nên phần thấp nhất của tủy sống chỉ ngang gian đốt sống thắt lưng 1-2 (L1-L2). Vì vậy, khi chọc dò dịch não tủy, để tránh gây tổn thương tủy sống, ta thường chọc ở vị trí thắt lưng 4-5 (L4-L5).

Dịch vào ra của cơ thể: cân bằng trong trạng thái ổn định

Dịch trong cơ thể rất hằng định, bởi vì nó liên tục được trao đổi với môi trường bên ngoài cũng như với các bộ phận khác trong cơ thể.

Tuần hoàn máu nội tạng đường tiêu hóa

Các chất dinh dưỡng không béo, hòa tan được trong nước từ ruột (ví dụ như carbohydrate và protein) cũng được vận chuyển trong máu tĩnh mạch cửa vào xoang chứa máu.

Khả năng hoạt động của cơ thể: giảm khả năng hoạt động ở vùng cao và hiệu quả của thích nghi

Người bản xứ làm việc ở những nơi cao có thể đạt hiệu suất tương đương với những người làm việc ở đồng bằng. Người đồng bằng có khả năng thích nghi tốt đến mấy cũng không thể đạt được hiệu suất công việc cao như vậy.

Kiểm soát huyết áp động mạch: angiotensin II làm cho thận giữ muối và nước

Angiotensin II là một trong những chất kích thích bài tiết aldosterone mạnh bởi các tuyến thượng thận, như chúng ta sẽ thảo luận liên quan đến điều hòa thể dịch và liên quan đến chức năng tuyến thượng thận.

Nguyên nhân gây ngoại tâm thu: rối loạn nhịp tim

Ngoại tâm thu thường xuyên gặp trong thông buồng tim, ngoại tâm thu cũng xảy ra khi đứa catheter vào trong buồng thất phải và chén ép nội tâm mạc.

Củng cố trí nhớ của con người

Nghiên cứu chỉ ra rằng việc nhắc đi nhắc lại một thông tin tương đồng trong tâm trí sẽ làm nhanh và tăng khả năng mức độ chuyển từ trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ dài hạn và do đó làm nhanh và tăng khả năng hoạt động củng cố.

Chức năng tạo nước tiểu sinh lý của thận

Cầu thận được cấu tạo bởi một mạng lưới mao mạch, xếp song song, và được bao quanh bởi bao Bowman.

Cơ quan Corti: tầm quan trọng trong việc thu nhận âm thanh

Các thụ thể nhận cảm trong cơ quan Corti gồm 2 loại tế bào thần kinh được gọi là tế bào lông- một hàng tế bào lông ở trong, và 3 đến 4 hàng tế bào lông ở bên ngoài, gồm 12,000 tế bào có đường kính chỉ khoảng 8 micro mét.

Hệ thần kinh thực vật chi phối đường tiêu hóa

Sự kích thích hệ giao cảm sẽ ức chế hoạt động của đường tiêu hóa, đối lập với hệ phó giao cảm. Nó tác động theo 2 đường: tác dụng trực tiếp của norepinephrine và do norepinephrine.

Vùng chi phối vận động chuyên biệt trên vỏ não

Một số ít các vùng vận động được biệt hóa cao ở vỏ não chi phối những chức năng vận động đặc trưng. Những vùng này được định vị bằng kích thích điện hoặc bởi sự mất chức năng vận động nhất định.

Trở kháng thành mạch với dòng máu của hệ tuần hoàn

Trở kháng là sự cản trở với dòng máu trong mạch, không thể đo bằng phương tiện trực tiếp, chỉ được tính từ những công thức, phép đo của dòng máu và sự chênh lệch áp lực giữa 2 điểm trên mạch.

Phức bộ QRS: hình dạng giãn rộng bất thường

Phức bộ QRS được xem là không bình thường khi kéo dài ít hơn 0,09s; khi nó giãn rộng trên 0,12s- tình trạng này chắc chắn gây ra bởi bệnh lý block ở 1 phần nào đó trong hệ thống dẫn truyền của tim.

Tính nhịp điệu của mô dễ bị kích thích phóng điện lặp lại

Các dòng chảy của các ion kali tăng lên mang số lượng lớn của các điện tích dương ra bên ngoài của màng tế bào, để lại một lượng đáng kể ion âm hơn trong tế bào xơ hơn trường hợp khác.

Vận chuyển acid béo tự do trong máu dưới dạng kết hợp với albumin

Ba phân tử acid béo liên kết với một phân tử albumin, nhưng nhu cầu acid béo dạng vận chuyển lớn thì có khoảng 30 phân tử acid béo có thể liên kết với một phân tử albumin.

Điều hòa sự bài tiết hormone tăng trưởng (GH)

Cơ chế chính xác điều khiển sự bài tiết GH vẫn chưa được hiểu một cách hoàn toàn, nhưng có vài yếu tố liên quan tới mức độ dinh dưỡng của cơ thể hoặc căng thẳng đã được biết là các yếu tố gây kích thích bài tiết GH.

Sinh lý điều trị đái tháo đường

Insulin có một số dạng. Insulin "Thường xuyên" có thời gian tác dụng kéo dài 3-8 giờ, trong khi các hình thức khác của insulin được hấp thụ chậm từ chỗ tiêm và do đó có tác dụng kéo dài đến 10 đến 48 giờ.

Chức năng phần sau trên của thùy thái dương - vùng wernicke (diễn giải phổ biến)

Kích thích điện khu vực Wernicke trong một người có ý thức đôi khi gây ra một suy nghĩ rất phức tạp, đặc biệt khi các điện cực kích thích đươc truyền đủ sâu vào não để tiếp cận các khu vực liên kết tương ứng với đồi thị.

Kiểm soát giải phóng năng lượng trong tế bào

Cơ chế xúc tác phản ứng hoá học của enzyme, trước hết là nhờ sự kết hợp lỏng lẻo với một trong các chất phản ứng, thay thế cầu nối bền chặt trong phân tử chất để có thể phản ứng được với các chất khác.

Loại dịch trong cơ thể người: đo bằng chỉ thị mầu

Dựa trên nguyên tắc bảo toàn vật chất, có nghĩa là tổng lượng vật chất sau khi hòa vào dịch bằng với tổng lượng vật chất trước khi được bơm vào.