- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Củng cố trí nhớ của con người
Củng cố trí nhớ của con người
Nghiên cứu chỉ ra rằng việc nhắc đi nhắc lại một thông tin tương đồng trong tâm trí sẽ làm nhanh và tăng khả năng mức độ chuyển từ trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ dài hạn và do đó làm nhanh và tăng khả năng hoạt động củng cố.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Một trí nhớ ngắn hạn chuyển thành trí nhớ dài hạn có thể được nhớ lại sau hàng tuần hay hàng năm sau đó, nó đã được củng cố. Một trí nhớ ngắn hạn nếu được hoạt hóa lặp đi lặp lại, sẽ bắt đầu thay đổi về hóa học, vật lý, giải phẫu ở synap chịu trách nhiệm cho trí nhớ dài hạn. Quá trình này đòi hỏi 5 đến 10 phút sự củng cố tối thiểu và 1 giờ hoặc lâu hơn cho củng cố vững chắc. Lấy ví dụ, nếu một ấn tượng cảm giác mạnh được tạo ra trên não bộ nhưng theo sau đó, trong một phút hoặc lâu hơn, bởi một chấn động điện lên não bộ, thì cảm giác trải qua đó sẽ không được ghi nhớ. Cũng tương tự như vậy, chấn động não, hôn mê sâu xảy ra đột ngột, hoặc nhiều tác động khác gây block tạm thời chức năng của não có thể gây ngăn cản sự củng cố.
Sự củng cố và thời gian cần thiết tạo ra nó có thể được giải thích rõ ràng bằng hiện tượng nhắc lại trí nhớ ngắn hạn, được mô tả dưới đây.
Nhắc lại làm tăng sự chuyển trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ dài hạn
Nghiên cứu chỉ ra rằng việc nhắc đi nhắc lại một thông tin tương đồng trong tâm trí sẽ làm nhanh và tăng khả năng mức độ chuyển từ trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ dài hạn và do đó làm nhanh và tăng khả năng hoạt động củng cố. Não bộ có khuynh hướng tự nhiên là nhắc lại những thông tin mới, đặc biệt là những thông tin mới lôi cuốn sự chú ý của tâm trí. Do đó, trong vòng một thời gian, những nét đặc trưng quan trọng của những trải nghiệm cảm giác sẽ càng ngày càng tăng lên trong lưu trữ trí nhớ. Hiện tượng này giải thích tại sao một người có thể nhớ một số lượng nhỏ thông tin có chiều sâu tốt hơn so với nhớ số lượng lớn thông tin hời hợt. Nó cũng giải thích tại sao một người tỉnh táo có thể củng cố trí nhớ tốt hơn một người ở trong tình trạng sa sút trí tuệ.
Trí nhớ mới được tạo ra trong quá trình củng cố
Một trong những đặc trưng quan trọng của củng cố là trí nhớ mới được tạo ra trong những lớp thông tin khác. Ttrong suốt quá trình này, một loại thông tin tương tự được lấy ra từ kho trín nhớ và sử dụng để giúp cho việc tạo ra thông tin mới. Những thông tin mới và cũ được so sánh sự tương đồng và khác nhau, đi đến nơi dự trữ thông tin về sự tương đồng và khác nhau đó hơn là đến nơi lưu trữ thông tin mới chưa qua xử lý. Như vậy, trong quá trình củng cố, trí nhớ mới không bị lưu trữ ngẫu nhiên trong não mà được lưu trữ trực tiếp với những neuron liên kết khác của cùng loại đó. Quá trình này cần thiết cho việc có thể tìm được trí nhớ sau này khi cần tìm lại thông tin cần thiết.
Vai trò của những phần đặc biệt của não bộ trong quá trình trí nhớ
Hải mã (Hippocampus) thúc đẩy sự lưu trữ trí nhớ
Mất trí nhớ xuôi chiều xảy ra sau tổn thương hải mã đã được xác nhận. Hải mã ở trung tâm vỏ não thùy thái dương, được bao phủ bởi não và đi lên trên trên vùng dưới vỏ,phía trong não thất bên. Hai hải mã được cắt bỏ để điều trị chứng động kinh ở bênh nhân mới mắc. Chứng này không thực sự ảnh hưởng đến trí nhớ trong não trước khi cắt đi hải mã. Mặc dù, sau khi cắt, những người này gần như mất khả năng ghi nhớ loại trí nhớ từ ngữ và biểu tượng (verbal and symbolic types of memories) (loại trí nhớ tường thuật) trong trí nhớ dài hạn, hay thậm chí trong trí nhớ trung hạn chỉ tồn tại nhiều hơn một vài phút. Do đó, những người này không thể thành lập được trí nhớ dài hạn mới của loại thông tin trong nền tảng trí tuệ. Tình trạng này được gọi là mất trí nhớ xuôi chiều.
Nhưng tại sao hải mã lại rất quan trọng trong viêc giúp não bộ ghi nhớ trí nhớ mới? Câu trả lời hợp lý nhất là hải mã ở giữa những con đường đi ra quan trọng nhất từ các vùng “khen thưởng” và “trừng phạt” của hệ viền.
Kích thích cảm giác hoặc suy nghĩ là nguyên nhân gây đau hoặc ghét kích thích lên trung tâm đáp ứng trừng phạt hệ Limbic, và những kích thích gây niềm vui, hạnh phúc, hoặc lí do khen thưởng kích hoạt trung tâm đáp ứng khen thưởng của hệ viền. Tất cả chúng cùng nhau quy định cảm xúc nền và động lực của con người. Động lực đó giúp bộ não nhớ được những kinh nghiệm và suy nghĩ vui hoặc không vui. Hồi hải mã và các nhân lưng trong của đồi thị, một cấu trúc viền nữa, đã chứng minh sự quan trọng trong tạo dựng các quyết định về những suy nghĩ của chúng ta là đủ qaun trọng trên cơ sở của sự khen thưởng hay trừng phạt để tương ứng với bộ nhớ.
Chứng hay quên ngược dòng - không có khả năng nhớ lại ký ức từ quá khứ
Khi mất trí nhớ ngược dòng xảy ra, mức độ quên các sự kiện vừa mới xảy ra có vẻ nhiều hơn so với các sự kiện cách xa trong quá khứ. Lý do của sự khác nhau này là những trí nhớ xa trong quá khứ được nhắc lại nhiều lần, các dấu vết trí nhớ được ăn sâu, và những yếu tố của loại trí nhớ này được lưu trữ ở một vùng rộng của não bộ.
Ở một vài người có tổn thương hải mã, vài mức độ của mất trí nhớ ngược chiều xảy ra cùng với mất trí nhớ xuôi chiều, điều này cho thấy hai laoij mất trí nhớ ít nhất có liên quan một phần và tổn thương hải mã có thể gây ra cả hai. Mặc dù tổn thương ở một số vùng của đồi thị có lẽ đặc trưng gây ra mất trí nhớ ngược chiều mà không có mất trí nhớ xuôi chiều. Lời giải thích được chấp nhận cho điều này là đồi thị có lẽ có vai trò giúp con người tìm kiếm kho trí nhớ và do đó đưa ra được trí nhớ đó. Như thế quá trình nhớ không chỉ yêu cầu lưu trữ trí nhớ mà còn có khả năng tìm kiếm trí nhớ sau này.
Hà mã không quan trọng trong việc học phản xạ
Một người bị tổn thương hải mã thường không gây khó khăn trong việc học các kỹ năng và trí tuệ từ ngữ hay biểu tương. Ví dụ, những người này vẫn có thể học các kỹ năng vận động bàn tay trong nhiều môn thể thao. Loại học tập này được gọi là học tập kỹ năng hay Reflexive Learning; nó phụ thuộc vào việc lặp đi lặp lại nhiều lần các bài tập vận động, hơn là nhắc lại biểu tượng trong tâm trí.
Bài viết cùng chuyên mục
Điều hòa gen trong cơ thể người
Ở động vật có nhiều loại tế bào, mô, cơ quan khác nhau, các điều hòa biểu hiện gen khác nhau cũng cho phép nhiều loại tế bào khác nhau trong cơ thể thực hiện các chức năng chuyên biệt của chúng.
Cảm giác xúc giác: sự phát hiện và dẫn truyền
Mặc dù, cảm giác đụng chạm, áp lực và rung là phân loại thường gặp khi phân chia các cảm giác, nhưng chúng được nhận biết bởi các loại receptor giống nhau.
Loạn nhịp nút xoang: nhịp xoang không bình thường
Loạn nhịp nút xoang có thể do 1 trong nhiều trạng thái của hệ tuần hoàn biến đổi làm tăng tín hiệu của thần kinh giao cảm và hệ thần kinh phó giao cảm đến nút xoang.
Giải phẫu và sinh lý của tụy
Tụy tiết nhiều hormon, như amylin, somatostatin, và pancreatic polypeptide, chức năng của chúng chưa được biết rõ. Mục đích chính là bàn về vai trò sinh lý của insulin và glucagon và sinh lý bệnh của các bệnh lý.
Dịch ngoại bào: môi trường trong cơ thể
Dịch ngoại bào và máu luôn có quá trình trao đổi qua lại với nhau nhờ quá trình khuếch tán dịch và chất tan qua thành các mao mạch, dịch ngoại bào chứa các ion và các chất dinh dưỡng và là môi trường.
Những chức năng đặc biệt ở trẻ sơ sinh
Đặc trưng quan trọng của trẻ sơ sinh là tính không ổn định của hệ thống kiểm soát hormone và thần kinh khác nhau, một phần là do sự phát triển chưa đầy đủ của các cơ quan và hệ thống kiểm soát chưa được thích nghi.
Adenosine Triphosphate: chất mang năng lượng trong chuyển hoá
Carbohydrat, chất béo, and protein đều được tế bảo sử dụng để sản xuất ra một lượng lớn adenosine triphosphate, là nguồn năng lượng chính cho mọi hoạt động của tế bào. Vì vậy, ATP được gọi là “chất mang năng lượng” trong chuyển hoá tế bào.
Tập trung mắt: điều hòa điều tiết mắt
Khi mắt tập trung vào một đối tượng ở xa và sau đó phải đột ngột tập trung vào một đối tượng ở gần, thấu kính thường điều tiết với sự nhạy bén thị giác tốt nhất trong thời gian ít hơn 1 giây.
Cấu trúc hóa học và sự tổng hợp insulin
Khi insulin được bài tiết vào máu, nó hầu như lưu thông ở dạng tự do. Bởi vì nó có thời gian bán hủy trung bình chỉ khoảng 6 phút nên phần lớn chúng bị loại bỏ khỏi tuần hoàn.
Giải phẫu và sinh lý của cơ tim
Những cơ chế đặc biệt trong tim gây ra một chuỗi liên tục duy trì co bóp tim hay được gọi là nhịp tim, truyền điện thế hoạt động khắp cơ tim để tạo ra nhịp đập của tim.
Tiểu thể Pacinian: điện thế nhận cảm và ví dụ về chức năng của receptor
Tiểu thể Pacinian có một sợi thần kinh trung tâm kéo dài suốt lõi tiểu thể. Bao quanh sợi thần kinh trung tâm này là các lớp vỏ bọc khác nhau xếp đồng tâm, và do vậy, sự đè ép ở bất kì vị trí nào bên ngoài tiểu thể sẽ kéo giãn.
Block nút xoang: chặn đường truyền tín hiệu điện tim
Tâm thất tự tạo nhịp mới với xung thường có nguồn gốc từ nút nhĩ thất,vì thế nên tần số xuất hiện của phức hệ QRS-T chậm lại nhưng không thay đổi hình dạng.
Áp suất thẩm thấu keo của dịch kẽ
Về mặt định lượng, người ta thấy trung bình áp suất thẩm thấu keo dịch kẽ cho nồng nồng của protein là khoảng 8 mmHg.
Điện tâm đồ: nguyên tắc phân tích trục điện tim
Bất kỳ sự thay đổi nào về sự dẫn truyền xung động này có thể gây ra sự bất thường điện thế của tim và hậu quả là gây ra sự thay đổi hình dạng các sóng trên điện tâm đồ.
Đặc điểm cấu trúc chức năng sinh lý của thận
Thận có hình hạt đậu nằm ở phía sau phúc mạc. Mỗi thận nặng khoảng 130g. Trên mặt phẳng cắt dọc, thận chia làm 2 vùng riêng biệt có màu sắc và cấu tạo khác nhau.
Sinh lý học các chất điện giải trong cơ thể
ADH tăng tái hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp. Khi Na+ máu dưới 135 mEq/l, thuỳ sau tuyến yên ngừng tiết ADH gây bài xuất nhiều nước tiểu loãng.
Nút nhĩ thất: chậm dẫn truyền xung động từ nhĩ xuống thất của tim
Hệ thống dẫn truyền của nhĩ được thiết lập không cho xung động tim lan truyền từ nhĩ xuống thất quá nhanh; việc dẫn truyền chậm này cho phép tâm nhĩ tống máu xuống tâm thất để làm đầy thất trước khi tâm thất thu.
Phức bộ QRS: hình dạng giãn rộng bất thường
Phức bộ QRS được xem là không bình thường khi kéo dài ít hơn 0,09s; khi nó giãn rộng trên 0,12s- tình trạng này chắc chắn gây ra bởi bệnh lý block ở 1 phần nào đó trong hệ thống dẫn truyền của tim.
Ba chuyển đạo lưỡng cực chi: các chuyển đạo điện tâm đồ
Một “chuyển đạo” không phải là một dây dẫn duy nhất kết nối từ cơ thể nhưng một sự kết hợp của hai dây dẫn và các điện cực của chúng tạo ra một mạch hoàn chỉnh giữa cơ thể và máy ghi điện tim.
Dịch lọc qua mao mạch: áp lực thủy tĩnh, áp lực keo huyết tương và hệ số lọc mao mạch
Áp lực thủy tĩnh có xu hướng để đẩy dịch và các chất hòa tan qua các lỗ mao mạch vào khoảng kẽ. Ngược lại, áp lực thẩm thấu có xu hướng gây ra thẩm thấu từ các khoảng kẽ vào máu.
Hấp thu và bài tiết của canxi và phosphate
Thông thường ống thận hấp thu khoảng 99% lượng canxi, và khoảng 100mg/ngày tiết ra trong nước tiểu. khoảng 90 % canxi trong nước tiểu đầu được tái hấp thu ở ống lượn gần,quai henle, một phần đầu của ống lượn xa.
Ảnh hưởng của gradients áp lực thủy tĩnh trong phổi lên khu vực lưu thông máu phổi
Động mạch phổi và nhánh động mạch của nó vận chuyển máu đến các mao mạch phế nang cho khí trao đổi, và tĩnh mạch phổi rồi máu trở về tâm nhĩ trái để được bơm bởi tâm thất trái thông qua tuần hoàn toàn thân.
Áp suất thẩm thấu keo của huyết tương
Chỉ có các phân tử hoặc ion không đi qua các lỗ của màng bán thấm gây áp lực thẩm thấu. Các protein là thành phần không dễ dàng đi qua các lỗ mao mạch, chịu trách nhiệm về áp lực thẩm thấu ở hai bên của màng mao mạch.
Phản xạ tư thế: dáng đi ở tủy sống
Ở động vật có xương sống, khi cơ thể bị ngả về một bên thì sẽ xuất hiện các động tác không đồng vận để cố gắng giúp nó đứng thẳng dậy. Phản xạ này được gọi là phản xạ đứng dậy tuỷ sống.
Thùy trước và thùy sau tuyến yên
Hai thùy tuyến yên có nguồn gốc khác nhau, thùy trước từ túi Rathke, là một vùng lõm vào của lớp thượng bì hầu họng, và thùy sau từ một mô thần kinh phát triển ra từ vùng dưới đồi.
