- Trang chủ
- Sách y học
- Sinh lý y học
- Giải phẫu sinh lý sợi cơ vân
Giải phẫu sinh lý sợi cơ vân
Trong hầu hết các cơ vân, mỗi sợi kéo dài trên toàn bộ chiều dài của cơ. Ngoại trừ cho khoảng 2% của sợi, mỗi sợi thường được phân bố bởi chỉ một tận cùng thần kinh, nằm gần giữa của sợi.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hình cho thấy tổ chức của cơ vân, biểu thị rằng tất cả các cơ vân là bao gồm của nhiều các sợi phạm vi từ 10 đến 80µm đường kính. Mỗi một sợi của các sợi được tạo thành từ các tiểu đơn vị kế tiếp nhỏ hơn, cũng được thể hiện trong hình và được mô tả trong các phần tiếp theo.

Hình. Tổ chức của cơ vân, từ tổng thể đến mức độ phân tử. F, G, H, và I là những mặt cắt ngang ở các mức biểu thị.
Trong hầu hết các cơ vân, mỗi sợi kéo dài trên toàn bộ chiều dài của cơ. Ngoại trừ cho khoảng 2% của sợi, mỗi sợi thường được phân bố bởi chỉ một tận cùng thần kinh, nằm gần giữa của sợi.
Màng sợi cơ vân là một màng mỏng bao quanh một sợi cơ vân
Màng sợi cơ gồm có một màng tế bào thực sự, gọi là màng sinh chất, và một lớp áo bên ngoài tạo thành một lớp mỏng của polysaccharide quan trọng mà có chứa nhiều sợi collagen mỏng... Tại mỗi điểm cuối của sợi cơ, lớp bề mặt của màng sợi cơ này hợp nhất với một sợi gân. Các sợi gân lần lượt tập hợp thành các bó để tạo thành các gân cơ mà sau đó kết nối các cơ với xương.
Các tơ cơ bao gồm các sợi Actin và Myosin
Mỗi sợi cơ chứa vài trăm đến vài ngàn các tơ cơ, được minh họa trong hình mặt cắt ngang của hình C. Mỗi tơ cơ (hình D và E) bao gồm của khoảng 1500 các sợi myosin và 3000 các sợi actin kề nhau, đó là những phân tử protein lớn polyme hoá chịu trách nhiệm cho sự co cơ thực tế. Các sợi này có thể nhìn thấy trong chế độ xem theo chiều dọc trong ảnh chụp hiển vi điện tử của hình, các phần của E thông qua L. Các sợi dày trong sơ đồ là myosin, và các sợi mỏng là actin.
Chú thích trong hình E rằng các sợi myosin và actin đan vào nhau một phần và do đó gây ra các tơ cơ có các dải sáng và tối xen kẽ, như minh họa trong hình dưới.

Hình. Ảnh hiển vi điện tử của các tơ cơ cơ cho thấy việc tổ chức chi tiết của các sợi actin và myosin. Lưu ý ty thể nằm ở giữa các tơ cơ.
Các dải sáng chứa chỉ các sợi actin và được gọi là các băng I bởi vì chúng đẳng hướng với ánh sáng phân cực. Các dải tối chứa các sợi myosin, cũng như các đầu tận cùng của các sợi actin nơi chúng chồng lên myosin, và được gọi là các băng A bởi vì chúng dị hướng với ánh sáng phân cực. Cũng lưu ý các chỗ nhô ra nhỏ từ các mặt của sợi myosin trong hình E và L. Những chỗ nhô ra này là các cầu nối chéo. Chính sự sự tương tác giữa các cầu nối chéo này và các sợi actin mà gây ra sự co cơ.
Hình E cũng cho thấy rằng các đầu tận cùng của các sợi actin được gắn vào một đĩa Z. Từ đĩa này, các sợi actin kéo dài ở cả hai hướng để đan vào với các sợi myosin. Đĩa Z, trong đó bao gồm các protein có dạng sợi khác nhau từ các sợi actin và myosin, đi ngang qua tơ cơ và cũng ngang từ tơ cơ đến tơ cơ, gắn các tơ cơ tất cả với nhau qua các hướng trên sợi cơ. Vì vậy, toàn bộ sợi cơ có các dải sáng và tối, cũng như các tơ cơ riêng lẻ. Những dải này làm cho cơ vân và cơ tim xuất hiện vân của chúng.
Một phần của tơ cơ (hoặc của toàn bộ sợi cơ) mà nằm giữa hai đĩa Z kế tiếp được gọi là một đơn vị co cơ. Khi sợi cơ đã co, chiều dài của đơn vị co cơ là khoảng 2µm. Ở chiều dài này, các sợi actin hoàn toàn chồng lên các sợi myosin, và các đầu của các sợi actin vừa mới bắt đầu chồng lên nhau. Được thảo luận sau, ở chiều dài này cơ có khả năng tạo ra lực co bóp lớn nhất của nó.
Các phân tử sợi nhỏ Titin giữ các sợi Myosin và Actin tại chỗ
Mối quan hệ gắn kết giữa các sợi myosin và actin được duy trì bởi một số lượng lớn các phân tử có dạng sợi của một loại protein được gọi là titin. Mỗi phân tử titin có trọng lượng phân tử khoảng 3 triệu, khiến cho nó một trong những phân tử protein lớn nhất trong cơ thể.

Hình. Tổ chức của các protein trong một đơn vị co cơ. Mỗi phân tử titin kéo dài từ đĩa Z đến vạch M. Một phần của phân tử titin có liên quan chặt chẽ với sợi dày myosin, trong khi phần còn lại của phân tử là co giãn và thay đổi chiều dài như đơn vị co cơ co và giãn.
Ngoài ra, bởi vì nó là có dạng sợi, nó rất là co giãn. Những phân tử titin co giãn hoạt động như một khung mà giữ các sợi myosin và actin tại chỗ sao cho cơ chế co bóp của đơn vị co cơ sẽ làm việc. Một đầu của phân tử titin là co giãn và được gắn vào đĩa Z, hoạt động như một lò xo và thay đổi chiều dài như đơn vị co cơ co và giãn. Phần khác của phân tử titin buộc nó với sợi dày myosin. Phân tử titin cũng xuất hiện để hoạt động như một khuôn mẫu cho sự hình thành ban đầu các phần của các sợi co bóp của đơn vị co cơ, đặc biệt là các sợi myosin.
Cơ tương là dịch nội bào giữa các tơ cơ
Nhiều các tơ cơ của mỗi sợi cơ lơ lửng cạnh nhau trong sợi cơ. Không gian giữa các tơ cơ được lấp đầy với dịch trong nội bào gọi là cơ tương, có chứa một lượng lớn kali, magiê và phosphat, cộng với nhiều các enzyme protein. Cũng co mặt là số lượng to lớn của ti thể mà nằm song song với các tơ cơ. Các ty thể cung cấp cho sự co các tơ cơ với một lượng lớn năng lượng ở dưới dạng các adenosine triphosphate (ATP) được hình thành bởi ty thể.

Hình. Lưới cơ tương trong không gian ngoại bào giữa các tơ cơ, cho thấy một hệ thống theo chiều dọc song song với các tơ cơ. Ngoài ra thể hiện trong mặt cắt ngang là các vi quản T (các mũi tên) dẫn đến bên ngoài của màng sợi và rất quan trọng để dẫn các tín hiệu điện vào trong trung tâm của sợi cơ.
Lưới cơ tương là một lưới nội bào tương chuyên biệt của cơ vân
Cũng trong cơ tương xung quanh các tơ cơ của mỗi sợi cơ là một lưới rộng, được gọi là lưới cơ tương. Lưới này có một tổ chức đặc biệt mà vô cùng quan trọng trong việc điều tiết dự trữ, phát hành, và tái hấp thu canxi và do đó làm cơ co. Các loại của sợi cơ co nhanh có lưới cơ tương đặc biệt phong phú.
Bài viết cùng chuyên mục
Vấn đề nội tiết ở trẻ sơ sinh
Thông thường, hệ nội tiết của trẻ sơ sinh thường rất phát triển lúc sinh, và đứa trẻ hiếm khi biểu hiện ngay bất cứ bất thường miễn dịch nào. Tuy nhiên, nội tiết của trẻ sơ sinh quan trọng trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Chuyển hóa của thai nhi
Thai có khả năng dự trữ chất béo và protein, hầu hết chất béo được tổng hợp từ đường. Những vẫn đề đặc biệt chuyển hóa của thai liên quan đến calci, phosphate, sắt và một số vitamin.
Sự vận động của tế bào cơ thể người
Yếu tố cần thiết của sự chuyển động là cung cấp năng lượng cần thiết để kéo tế bào về phía chân giả. Trong bào tương của tất cả tế bào là một lượng lớn protein actin.
Trạm thần kinh: sự phân kỳ của các tín hiệu đi qua
Sự phân kỳ khuếch đại hiểu đơn giản là các tín hiệu đầu vào lan truyền đến một số lượng nơ-ron lớn hơn khi nó đi qua các cấp nơ-ron liên tiếp trong con đường của nó.
Điều hòa bài tiết insulin
Kích thích tiết insulin bởi amino acid là quan trọng bởi vì insulin lần lượt tăng cường vận chuyển amino acid tới tế bào, cũng như sự hình thành protein trong tế bào..
Sợi thần kinh: sự tương quan về trạng thái
Một số tế bào thần kinh trong hệ thần kinh trung ương hoạt động liên tục vì ngay cả trạng thái kích thích bình thường cũng trên ngưỡng cho phép.
Các receptor ở các cơ quan đích hệ giao cảm và phó giao cảm
Các receptor nằm ở mặt ngoài của màng tế bào. Sự bám của các chất dẫn truyền thần kinh vào các receptor gây ra sư thay đổi về hình dạng trong cấu trúc của phân tử protein. Kế tiếp, phân tử protein bị biến đổi sẽ kích thích hoặc ức chế tế bào.
Dược lý của hệ thần kinh tự chủ
Các thuốc có tác dụng gián tiếp lên hệ giao cảm tại vị trí các cơ quan đích của hệ giao cảm bị kích thích trực tiếp. Bao gồm các thuốc ephedrine, tyramine, và amphetamine.
Cơ chế tác động nội bào của testosterone
Testosteron kích thích tăng sản xuất protein ở hầu hết các mô trong cơ thể, đặc biệt là ở các mô cơ quan chịu trách nhiệm cho sự phát triển đặc tính sinh dục nam nguyên phát hoặc thứ phát.
Bài tiết chất nhầy và gastrin ở tuyến môn vị
Tế bào bài tiết một lượng nhỏ pepsinogen, như đã nói ở trên, và đặc biệt là bài tiết một lượng lớn lớp chất nhày mỏng để giúp bôi trơn thức ăn khi di chuyển, cũng như bảo vệ thành của dạ dày khỏi sự phân hủy của các enzyme.
Sự điều hòa bài tiết pepsinogen ở dạ dày
Tốc độ bài tiết pepsinogen - tiền chất của pepsin gây nên sự tiêu hóa protein - bị ảnh hưởng rất mạnh bởi lượng acid có mặt trong dạ dày. Ở những bệnh nhân mất khả năng bài tiết lượng acid cơ bản.
Giải phẫu và sinh lý của cơ tim
Những cơ chế đặc biệt trong tim gây ra một chuỗi liên tục duy trì co bóp tim hay được gọi là nhịp tim, truyền điện thế hoạt động khắp cơ tim để tạo ra nhịp đập của tim.
Cảm giác tư thế: cảm giác cảm thụ bản thể
Sự nhận thức về tư thế, gồm cả động và tĩnh, phụ thuộc vào nhận biết về mức độ gập góc của tất cả các khớp trong các mặt phẳng và sự thay đổi tốc độ của chúng.
Giải phóng năng lượng cho cơ thể bằng con đường kỵ khí - Đường phân kỵ khí
Lactic acid được tổng hợp trong quá trình đường phân kỵ khí không mất đi khỏi cơ thể bởi vì khi oxy đầy đủ trở lại, lactic acid có thể chuyền về thành glucose hoặc được sử dụng chính xác để giải phóng năng lượng.
Synap thần kinh trung ương: giải phẫu sinh lý của synap
Nhiều nghiên cứu về synap cho thấy chúng có nhiều hình dáng giải phẫu khác nhau, nhưng hầu hết chúng nhìn như là cái nút bấm hình tròn hoặc hình bầu dục, do đó, nó hay được gọi là: cúc tận cùng, nút synap, hay mụn synap.
Điều hòa bào tiết dịch tụy
Hai yếu tố acetylcholine và cholecystokinin, kích thích tế bào tiểu thùy của tuyến tụy, gây sản xuất một lượng lớn enzyme tiêu hóa của tuyến tụy và một lượng nhỏ nước và điện giải được bài tiết cùng.
Phức bộ QRS: nguyên nhân gây ra điện thế bất thường
Một trong các nguyên nhân gây giảm điện thế của phức bộ QRS trên điện tâm đồ là các ổ nhồi máu cơ tim cũ gây giảm khối lượng cơ tim, làm cho sóng khử cực đi qua tâm thất chậm và ngăn các vùng của tim khử cực cùng 1 lúc.
Báo động hoặc phản ứng stress của hệ thần kinh giao cảm
Hệ giao cảm cũng đặc biệt được kích hoạt mạnh mẽ trong nhiều trạng thái cảm xúc. Ví dụ, trong trạng thái giận dữ, vùng dưới đồi sẽ bị kích thích, các tín hiệu sẽ được truyền xuống qua hệ thống lưới của thân não.
Dải cảm giác giữa: đặc điểm dẫn truyền và phân tích tín hiệu trong hệ thống cột tủy sau
Hầu như mọi con đường cảm giác, khi bị kích thích, làm phát sinh đồng thời các tín hiệu ức chế bên; những tín hiệu ức chế lan truyền sang các bên của tín hiệu kích thích và các nơ-ron ức chế lân cận.
Cân bằng dinh dưỡng trong cơ thể
Ngay lập tức sau một bữa ăn gồm cả carbohydrates, protein và chất béo, phần lớn thức ăn được chuyển hóa là carbohydrates, vì thế thương số hô hấp tại thời điểm đó tiệm cận một.
Sự tổng hợp Carbohydrates từ Proteins và chất béo - Quá trình tân tạo glucose
Khi kho dự trữ carbohydrates của cơ thể giảm xuống dưới mức bình thường, một lượng vừa phải glucose có thể được tổng hợp từ amino acids và phần glycerol của chất béo.
Ảnh hưởng của lực ly tâm lên cơ thể
Ảnh hưởng quan trọng nhất của lực ly tâm là trên hệ tuần hoàn, bởi vì sự lưu thông của máu trong cơ thể phụ thuộc vào độ mạnh của lực ly tâm.
Đo điện thế màng tế bào
Để tạo ra một điện thế âm bên trong màng, chính các ion dương chỉ đủ phát triển lớp điện thế lưỡng cực ở màng phải được vận chuyển ra phía ngoài.
Sinh lý hệ thần kinh tự động
Receptor tiếp nhận norepinephrin của hệ giao cảm được gọi là noradrenergic receptor, bên cạnh norepinephrin, các receptor này cũng đáp ứng với epinephrin.
Đại cương sinh lý hệ thần kinh
Hệ thần kinh là cơ quan duy nhất có khả năng thực hiện các hoạt động kiểm soát hết sức phức tạp. Hằng ngày, nó nhận hàng triệu mã thông tin từ các cơ quan cảm giác truyền về rồi tích hợp chúng lại để định ra các đáp ứng thích hợp.
